Rau má, tích tuyết thảo, phanok (Centella asiatica (L.) Urb., (Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus cochinchinensis Lour.))

Nhân dân coi vị rau má là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc, có tính chất giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, dùng chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa.

Nov 2, 2021 - 22:17
 0  33
Rau má, tích tuyết thảo, phanok (Centella asiatica (L.) Urb., (Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus cochinchinensis Lour.))
Cây Rau má - Centella asiatica
Temu
Temu

Cây Rau má còn gọi ià tích tuyết thảo, phanok (Vientian), trachiek kranh (Campuchia).

Temu
Temu

Tên khoa học: Centella asiatica (L.) Urb., (Hydrocotyle asiatica L., Trisanthus cochinchinensis Lour.) Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).

A. Mô tả cây

Rau má là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mắt chim, khía tai bèo, rộng 2 - 4cm, cuống dài 2 - 4cm trong những nhánh mang hoa và dài 10 - 12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3 - 5mm, có sống hơi rõ.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước vùng nhiệt đới như Lào, Campuchia, Inđônêxya, Ấn Độ,…
 
Toàn cây khi tươi có vị đắng, hăng hơi khó chịu, khi khô thì chỉ còn mùi cỏ khô. Thu hái quanh năm. Dùng tươi hay sao vàng.
 
C. Thành phần hoá học

Rau má được nhiều người nghiên cứu, nhưng kết quả chưa thống nhất.
 
1. Theo Basu và Lamsal (1947), trong rau má có một ancaloit gọi là hydrocotylin C22H33O8N, có độ chảy 210 – 212oC. Ancaloit này cho các muối oxalat với độ chảy 295oC, muối picrat với độ chảy 110 – 112oC, muối cloroplatinat với độ chảy 134 – 136oC.
 
2. Theo Bửu Hội, Rakoto Ratsimamanga và Boiteau, trong cây rau má thu hái ở đảo Mangat có chứa một glucozit gọi là asiaticozit với công thức C54H88O23. Thủy phân asiaticozit sẽ cho axit asiatic và glucoza. Chất glucozit này có tinh thể, tan trong rượu, độ chảy 230 – 233oC, có thể cho một dẫn xuất tan trong nước gọi là oxyasiaticozit có tác dụng điều trị được bệnh lao.

Asiaticozit
 
3. Một số tác giả khác (Lythgoe và Trippet) nghiên cứu rau má mọc ở Xrilanca (1949) đã lấy ra được một glucozit khác, đặt tên là xentelozit (centelloside), có tính chất gần như asiaticozit.
 
4. Hiện nay, một số tác giả cho rằng hoạt chất của rau má là những saponin (axit asiatic, axit brahmic) có cấu trúc tri-tecpen, có tác dụng tới mô liên kết, giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng. Do đó, làm cho vết thương mau lành và lên da non.
 
D. Công dụng và liều dùng

Rau má hiện nay còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân, đồng thời còn là loại rau người ăn được.

Trong ca dao ta có câu:

Đói ăn rau mưng, rau má,
Đừng ăn vất vả hư thân.

Nhân dân coi vị rau má là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc, có tính chất giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, dùng chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa.
 
Ngày dùng 30 đến 40g tươi, vò nát, vắt lấy nước uống hoặc sắc uống. Thuốc rau má không độc, phụ nữ có thai vẫn dùng được.
 
Tại một số nước, người ta chú ý nghiên cứu rau má để tìm tác dụng chữa bênh hủi và bệnh lao.
 
Theo Tập san Société des amis du pare botanique de Tananarive, 1941 và 1942 tại Mangát, người ta dùng rau má chữa hủi có kết quả tốt hơn chế phẩm của Đại phong tử. Năm 1949, Lythgoe và Trippet đã nghiên cứu tác dụng chữa hủi của xentelozit. Ngoài ra, chất chế từ asiaticozt có tác dụng chống vi trùng lao.
 
Ở một số nước, người ta chế rau má dưới dạng:

1. Viên nén chứa 0.01g rau má (1) để chữa các chứng giãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở các tĩnh mạch chân chậm trở về tim. Ngày uống 3 - 6 viên vào bữa ăn.
 
2. Thuốc tiêm 1ml chứa 0.02g cao rau má. Cách 1 ngày tiêm bắp 1 ống, phối hợp bôi thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột chứa 2% cao rau má để chữa các vết bỏng, vết thương do chấn thương hoặc vết phẫu thuật, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng) hoặc sản phụ.
 
Các đơn thuốc có rau má:

1. Chữa đau bụng, đi ỉa lỏng, đi lỵ: Rau má (cả dây, cả lá) rửa sạch, thêm ít muối, nhai sống, Ngày ăn chừng 30 - 40g (kinh nghiệm nhân dân nhiều nơi). Có thể luộc rau má mà ăn như ăn rau.
 
2. Chữa phụ nữ kinh nguyệt đau bụng, đau lưng: Rau má hái lúc ra hoa, phơi khô, tán nhỏ. Ngày uống một lần, vào lúc buổi sáng, mỗi lần hai thìa cà phê gạt ngang.
 
3. Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa: Hàng ngày, ăn rau má trộn dầu giấm. Hoặc rau má hái về, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường vào mà uống hàng ngày.
 
Chú thích:

Ngoài vị rau má Centella asiatica nói trên, trong nhân dân ta còn dùng vị rau má mơ, rau má họ hay thiên hồ thái Hydrocotyle rotundifolia Roxb. Là loại cỏ có thân mọc bò, nhỏ, mang rễ ở những đốt, lá hình hơi tròn, mép khía tai bèo, đường kính nhỏ hơn loại trên, chừng 10 - 15mm, cuống dài 1 - 4cm, hoa nhỏ màu xanh nhạt. Quả dẹt, rộng chừng 1.5mm.

Tìm hiểu cây: Rau má mơ (Thiên hồ thái) - Hydrocotyle rotundifolia
 
Cây này mọc hoang ở những nơi ẩm thấp khắp nước ta. Có mọc ở những nước nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á và châu Phi. Nhân dân dùng toàn cây chữa bệnh gan.
 
(1) Cao rau má có thể chế như sau: Rau mã phơi hay sấy khô. Chiết bằng cồn 95% đun sôi. Cô thu hồi cồn. Bốc hơi tới dạng cao khô. Có thể chiết một lần nữa bằng N.butanol.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)

⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! 
Một bất ngờ khác dành cho bạn! Nhấp https://temu.to/k/u1s17ibl63n hoặc Tìm kiếm int66445 để kiếm tiền cùng tôi!

⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! 
Một bất ngờ khác dành cho bạn! Nhấp https://temu.to/k/u1s17ibl63n hoặc Tìm kiếm int66445 để kiếm tiền cùng tôi!