Thông tin Cây Bồ Công Anh theo sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS Đỗ Tất Lợi
Phân biệt và nhận biết các cây có cùng tên bồ công anh như Bồ công anh thấp, bồ công anh trung quốc, bồ công anh Việt Nam, rau diếp, cúc chỉ thiên, cây chỉ thiên. Phân biệt công dụng tác dụng của các loại cây thuốc này.
1. Cây bồ công anh Việt Nam Lactuca indica . L. họ Cúc (Asteraceae).
Chữ “Việt Nam” là chúng tôi mới thêm để tránh nhầm lẫn. Cây này được dùng phổ biến, nhất là tại phía Bắc và phía bắc Trung Bộ.
Tên khác: Cây mũi mác, diếp dại, diếp trời, rau bồ cóc. Tên khoa học: Lactuca indica L. họ Cúc (Asteraceae)
2. Cây bồ công anh Trung Quốc Taraxacum officinale Wigg. cũng họ Cúc (Asteraceae).
Chữ “Trung Quốc” chúng tôi cũng mới thêm vào để chỉ rõ rằng tên bồ công anh ghi trong các sách Trung Quốc là cây này. Cây này có mọc hoang và được trồng ở một vài nơi trong nước ta, nhất là tại các miền núi cao như Tam Đảo, Sapa. Tuy nhiên ta hầu như không dùng loại này.
Tên khác: Bồ công anh Trung quốc, Sư nha. Tên khoa học: Taraxcum officinale F. H. Wigg. Tên đồng nghĩa: Taraxacum dens – leonis Desf., Lontodon taraxacum L. Họ: Cúc (Asteraceae) Tên nước ngoài: Dendelion (Anh); pissenlit, laitne des chiens, salde taupe, couronne de moine,
3. Cây Chỉ thiên Elephantopus scaber L. cũng thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Cây này được một số anh em miền Nam nước ta dùng với tên bồ công anh. Điều đáng chú ý là tại một vài nơi ở miền nam Trung Quốc (tỉnh Quảng Tây) người ta cũng gọi cây chỉ thiên này là bồ công anh và dùng như cây bồ công anh Trung Quốc (xem vị chỉ thiên).
Cúc chỉ thiên hay còn gọi là chân voi nhám, cỏ lưỡi mèo, bồ công anh (tên khoa học Elephantopus scaber), là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Mô tả cây
Bồ Công Anh Việt Nam
Bồ công anh là một cây nhỏ, cao 0,60m đến 1m, có thể cao tới 3m. Thân mọc thẳng, nhẵn, không cành hoặc rất ít cành. Lá có nhiều hình dạng; lá phía dưới dài 30cm, rộng 5-6cm. gần như không cuống, chia thành nhiều thùy hay răng cưa to thô, lá phía trên ngắn hơn, nguyên chứ không chia thùy, mép có răng cưa thưa. Bấm lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa, vị hơi đắng. Cụm hoa hình đầu, màu vàng, có loại tím.
Có người gọi cây hoa vàng là hoàng hoa địa đinh và loại hoa tím là tử hoa địa đinh (tử là màu tím). Cả hai loại đều được dùng làm thuốc
Bồ Công Anh Trung Quốc
Cỏ sống dai, có rễ trụ. Lá mọc thành hoa thị ở gốc, phiến lá cắt thành nhiều thùy nhỏ như răng nhọn, mềm trông giống như hàm răng sư tử do đó có tên dens leonis (có nghĩa là răng con sư tử), từ giữa vòng lá mọc lên cuống cụm hoa màu vàng, khi già ra quả có lông màu trắng xếp thành hình cầu. Căn cứ vào màu sắc hoa, dáng lá, hình quả người ta chia ra nhiều loại khác nhau.
Phân bố, thu hái và chế biến
Bồ Công Anh Việt Nam
Bồ công anh mọc hoang tại nhiều tỉnh miền bắc nước ta; ít thấy trồng. Việc trồng rất dễ dàng bằng hạt. Mùa trồng vào các tháng 3-4 hoặc 9- 10. Có thể trồng bằng mẩu gốc, sau 4 tháng có thể bắt đầu thu hoạch.
Thường nhân dân ta dùng lá, lá hái về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô dùng dần. Thường hay dùng tươi. Không phải chế biến gì đặc biệt.
Một số người hái cả cây, cả rễ cắt nhỏ phơi khô để dùng.
Bồ Công Anh Trung Quốc
Cây này mọc hoang tại những vùng núi cao ở nước ta như Tam Đảo, Sapa, Đà Lạt không rõ mọc tự nhiên hay do Pháp trước kia đưa giống vào trồng để lấy lá ăn làm rau xà lách rồi còn sót giống lại. Tại Hà Nội trước đây cũng thấy có trồng và lấy lá bán cho người Pháp, nhưng từ Cách mạng tháng tám 1945 hầu như không thấy trồng. Gần đây chúng tôi lấy giống ở Tam Đảo và Sapa về trồng lại nhưng chưa phổ biến. Cây mọc ở đồng bằng cũng như miền núi rất tốt, có ra hoa kết quả.
Được trồng tại Châu u (làm thuốc và lấy lá làm rau ăn) tại Trung Quốc mọc hoang, không ai trồng, chỉ dùng với tính chất tự cung tự cấp.
Riêng Pháp hằng năm tiêu thụ và xuất hàng chục tấn rễ khô, lá cũng được dùng nấu cao có vị đắng dùng làm thuốc. Mặc dầu Pháp xuất bồ công anh nhưng năm 1921 còn nhập 7 tấn lá và 6 tấn rễ của nước ngoài.
Rễ hái vào giữa mùa hè là thời kỳ có nhiều vị đắng nhất, người ta cho tác dụng của rễ và cây là ở chất đắng này. Nếu hái vào thu đông, vị đắng kém và rễ chứa nhiều inulin ít tác dụng.
Rễ hái về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô.
Có thể hái toàn cây cả rễ phơi khô mà dùng.
Thành phần hóa học
Bồ Công Anh Việt Nam
Chưa thấy tài liệu nghiên cứu về cây Lactuca indica L. của ta. Theo những tài liệu nước ngoài, tại một số nước người ta có sử dụng và nghiên cứu một số loài Lactuca khác như Lactuca virosa, Lactuca sativa L. (rau diếp của ta ăn) thấy trong có lactuxerin là một ête axetic của hai thứ rượu nhị no lactuxerola a và lactuxerola B ngoài ra còn 3 chất đắng có tên axit lacturic, lactucopicrin và lactuxin. Lactucopicrin. là este p. hydroxyphenylaxetic của lactuxin.
Bồ Công Anh Trung Quốc
Theo Wehmer (1931, Die Pflanzen stoffe Bd. II) trong toàn cây bồ công anh Taraxacum officinale Wigg. có chứa inozitola, 0,5% asparagin, đường khử, chất nhựa, chất đắng, saponozit, men tyrosinaza. Trong hoa có xanthophyl, trong rễ có inulin (tới 40% đối với rễ khô), saccaroza, glucoza, chất đắng có tinh thể gọi là taraxaxin C40H40O5, inozitola, lactat canxi, một ít tinh dầu, chất nhựa, một chất đắng chưa xác định, có thể là hỗn hợp taraxaxin và taraxaxerin. Trong nhũ dịch có chất đắng taraxerola C30H50O, inozitola, taraxaxterola, chất prôtit và cao su, đường khử.
Trong lá có luteolin 7 glucozit và apigenin 7 glucozit hay cosmoziozit. Ngoài ra rất nhiều vitamin B và C.
Tác dụng dược lý
Theo sự nghiên cứu của nước ngoài, những loại Lactuca nói trên không có độc, có tính chất gây ngủ nhẹ. Nhưng tại những nước này người ta không dùng lá như ở ta, mà dùng chất nhựa mủ phơi khô đen lại như nhựa thuốc phiện để dùng làm thuốc chữa ho trẻ con và dùng chữa cho trẻ con mất ngủ.
Cây Lactuca indica L. của ta chưa thấy tài liệu nghiên cứu.
Công dụng và liều dùng
Bồ Công Anh Việt Nam
- Bồ công anh Việt Nam là một vị thuốc kinh nghiệm trong nhân dân để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu.
- Còn dùng uống trong chữa bệnh đau dạ dày, ăn uống kém tiêu
- Liều dùng hàng ngày: 20 đến 40g lá tươi hoặc 10 đến 15g lá khô hay cành và lá khô. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác, thường dùng dưới dạng thuốc sắc có thêm đường cho dễ uống. Còn dùng giã nát đắp ngoài, không kể liều lượng.
Đơn thuốc trong nhân dân có vị bồ công anh
- Chữa sưng vú, tắc tia sữa: Hải 20 đến 40g lá bồ công anh tươi, rửa sạch, thêm ít muối giã nát, vắt lấy nước uống, bã dùng đắp lên nơi vú sưng đau. Thường chỉ dùng 2-3 lần là đỡ (kinh nghiệm dân gian).
- Chữa ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt: Lá bồ công anh khô 10 đến 15g; nước 600ml (3 bát), sắc còn 200ml (1 bát) (có thể đun sôi kỹ và giữ sôi trong vòng 15 phút). Uống liên tục trong 3-5 ngày, có thể kéo dài hơn.
- Đơn thuốc chữa đau dạ dày: Lá bồ công anh khô 20g, lá khôi 15g, lá khổ sâm 10g. Thêm 300ml nước, sắc đun sôi trong vòng 15 phút, thêm ít đường vào mà uống (chia 3 lần uống trong ngày). Uống liên tục trong vòng 10 ngày, nghỉ 3 ngày rồi lại tiếp tục cho đến khi khỏi.
Bồ Công Anh Trung Quốc
Các nước Châu u dùng rễ bồ công anh làm vị thuốc bổ đắng, tẩy máu, lọc máu; lá ăn như rau xà lách và làm thuốc cùng một công dụng như rễ.
Sách Trung Quốc cổ coi bồ công anh có vị ngọt, đắng, tính hàn, vào hai kinh tỳ và vị có tác dụng giải độc, thanh nhiệt, lương huyết tán kết, thông sữa, lợi tiểu tiện dùng trong các bệnh sưng vú, mụn nhọt, tiểu tiện khó khăn, ít sữa. Ngày dùng 4 đến 12g dưới dạng thuốc sắc.
Nên chú ý nghiên cứu sử dụng những loài này hầu như chưa được dùng ở nước ta.
Phân biệt ba cây bồ công anh
Để phân biệt 3 cây mang tên bồ công anh, chúng tôi tóm tắt sau đây sự khác nhau giữa 3 cây:
Tên khoa học | Tên khác | Chiều cao | Lá | Hoa |
Lactuca indica | Diếp dại Bồ công anh | 0,6-3m | Mọc so le | Hình đầu màu vàng |
Taraxacum officinale | Bồ công anh Trung Quốc | 0,2-0,4 m | Mọc sát đất hình hoa thị | Hoa màu vàng quả xếp hình cầu có lông mầu trắng |
Elepphantopuss scaber | Chỉ thiên | 0,2 – 0,4 m | Mọc sát đất | Hoa màu tím nhạt hình hoa thị |