Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturus) và chỉ xác (Frustus Aurantii) những thông tin đầy đủ chi tiết vị thuốc cập nhật mới nhất

Chỉ thực và chỉ xác là tên gọi của loại quả của nhiều cây khác nhau, hoặc cùng loại quả của nhiều thời kỳ khác nhau, cũng như tác dụng và công dụng cũng khác nhau. Vị thuốc chỉ thực còn gọi trấp, chấp, kim quất, khổ chanh, chỉ thiệt, trái non của quả trấp, đổng đình, niêm thích, phá hông chùy, chùy hông phích lịch (Hòa Hán dược khảo).Tên khoa học: Fructus ponciri Immaturi, Fructus aurantii Immaturi. Họ khoa học: thuộc họ Cam (Rutaceae).

Jan 6, 2024 - 12:26
 0  34
Chỉ thực  (Fructus Aurantii immaturus) và chỉ xác (Frustus Aurantii) những thông tin đầy đủ chi tiết vị thuốc cập nhật mới nhất
Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturi) và Chỉ Xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.

Tên Việt Nam: Trấp, Chấp, Kim quất, Khổ chanh, Trái non của quả Trấp.

Tên khác: Đổng đình, Niêm thích, Phá hông chùy, Chùy hông phích lịch (Hòa Hán Dược Khảo).

Tên khoa học: Fructus ponciri Immaturi, Fructus aurantii Immaturi

Họ khoa học: Thuộc họ Cam (Rutaceae).

Tên gọi: Chỉ có nghĩa là tên cây, thực là quả, nên gọi là Chỉ thực.

Mô tả dược liệu Chỉ xác, Chỉ thực

1. Đặc điểm sinh thái

Tại Việt Nam, Chỉ xác – Chỉ thực thường được bào chế từ quả cây Trấp. Cây Trấp là cây gỗ nhỏ cao khoảng 2 – 10 mét, thân nhẵn, không có gai hoặc gai ngắn, thẳng. Lá cây hình trái xoan, mọc so le, phiến lá dài, góc tròn, đầu tù đôi khi hơi lõm vào, đầu lá hơi có răng cưa, hai mặt lá nhẵn, mặt trên thường bóng.

Cụm hoa Trấp thường mọc thành chùm, mỗi chùm thường có 6 – 8 hoa nhỏ. Hoa thường mọc ở các kẽ lá, có màu trắng hoặc vàng nhạt, có 5 lá dài, 5 cánh hoa và 20 nhị. Quả Trấp hình cầu, có núm, vỏ ngoài sần sùi, quả chín có màu vàng nhạt, ruột vàng lục, vị rất chua.

Mùa hoa vào tháng 2 – 4, mùa quả vào tháng 5 – 8.

Thu hái, sơ chế: vào tháng 4 - 6 lúc trời khô ráo, thu nhặt các quả non rụng dưới gốc cây thì được chỉ thực. Dùng quả có đường kính dưới 1cm thì để nguyên, quả có đường kính trên 1cm thì bổ đôi theo chiều ngang, khi dùng rửa sạch đất bụi, ủ mềm, xắt lát hay bào mỏng, sao giòn. Cả hai vị  chỉ thực (Fructus Aurantii immaturus) và chỉ xác (Frustus Aurantii) đều là quả của cây Cam chua (Citrus aurantium L.), họ Cam (Rlltaceae). Thu hái lúc quả non ta được chỉ thực, thu hái khi quả già ta được chỉ xác, đem bổ đôi, phơi hoặc sấy khô. Dược liệu chỉ thực có hình bán cầu, một số có hình cầu, màu đen hoặc màu lục nâu thẫm. Chỉ thực có mùi thơm mát, vị đắng hơi chua. Dược liệu chỉ xác có dạng hình bán cầu, màu nâu thẫm hoặc màu nâu. Chỉ xác có mùi thơm, vị đắng hơi chua.

2. Bộ phận sử dụng dược liệu

Quả chín của Trấp được sử dụng để làm dược liệu.

3. Phân bố

Chỉ xác là vị thuốc có nguồn gốc từ Ấn Độ, Malaysia, sau đó lan rộng ra các nước Đông Nam Á bao gồm Việt Nam và miền nam Trung Quốc.

Tại Việt Nam, Trấp mọc hoang và được trồng tại nhiều tỉnh ở miền Bắc. Cây thường được tìm thấy ở các tỉnh thành như Hà Nam, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình và một số nơi khác.

4. Thu hái – Sơ chế

Thu hái Trấp vào tháng 9 – 10 khi quả gần chín, có đường kính từ 3 – 5 cm, phơi khô khi trời khô ráo (Chỉ xác). Hoặc có thể hái những quả xanh vào tháng 5 – 6 lúc trời khô ráo, thu nhặt các quả non, rụng dưới gốc cây, bổ đôi, phơi khô (Chỉ thực).

Bào chế dược liệu Chỉ xác – Chỉ thực:

  • Chỉ xác: Quả thu hái về khi chưa chín, ngâm nước cho mềm, bỏ phần thịt quả và hạt bên trong, sau đó thái mỏng, phơi khô, trộn nếp hoặc cám, sao vàng cho đến khi cám cháy đen. Bỏ phần cám chỉ lấy phần Chỉ xác, bảo quản dùng dần. Chỉ xác để càng lâu dược tính càng mạnh, chất lượng càng cao.

  • Chỉ thực: Những quả Trấp có đường kính dưới 1 cm thì để nguyên còn quả trên 1 cm thì bổ đôi theo chiều ngang, rửa sạch, ngâm nước cho mềm, bỏ phần thịt và hạt quả, chỉ lấy phần vỏ ngoài, thái nhỏ, phơi khô. Sau lại sao với nếp hoặc cám, đến khi cháy đen thì thu phần Chỉ thực, bỏ phần cám, bảo quản dùng dần. Tương tự như Chỉ xác, Chỉ thực để càng lâu năm càng tốt.

5. Bảo quản dược liệu

Chỉ xác và Chỉ thực cần được bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát, tránh độ ẩm cao để không gây nấm mốc dược liệu.

6. Thành phần hóa học

+ Neohesperidin, Naringin, Rhoifolin, Lonicerin, Vitmin C (Trung Dược Học).

+   Hesperidin, Neohesperidin, Naringin   (R F Albach và cộng sự, Phytochemistry 1969, 8 (1) : 127).

+   Synephrine, N-Methyltyramine  (Hà Triều Thanh, Trung Dược Chí 1981, 12 (8) : 345).

+   Vỏ quả chứa chất dầu 0,469%, trong đó có (-Pinene, Limonene, Camphene, (-Terpinene, p-Cymene, Caryophyllene (Nobile Luciano và cộng sự, C A 1969, 70 : 31620b).

Vị thuốc Chỉ xác – Chỉ thực

Vị thuốc Chỉ thực bào chế từ quả Trấp thu hái khi còn non

1. Tính vị

  • Vị cay, đắng (theo Dược Tính Bản Thảo)

  • Tính hơi hàn, vị đắng (theo Trung Dược Học)

  • Tính hàn, vị đắng (theo Bản Kinh)

  • Tính hơi hàn, không chứa độc, vị chua (theo Biệt Lục)

  • Tính hơi lạnh, có vị đắng (theo Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)

  • Tính hơi hàn, vị đắng (theo Trung Dược Học)

2. Quy kinh

  • Kinh Vị, Tỳ (theo Trung Dược Học)

  • Kinh Tỳ, Vị (theo Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)

  • Kinh Tỳ, Vị (theo Bản Thảo Kinh Sơ)

  • Kinh Tỳ, Can (theo Bản Thảo Tái Tân)

  • Kinh Tỳ Tâm (theo Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải)

3. Tác dụng dược lý

Theo y học hiện đại Chỉ xác – Chỉ thực có một số tác dụng như:

  • Cường tim, tăng huyết áp nhưng không làm tăng nhịp tim. Chỉ thực còn làm tăng lưu lượng máu đến động mạch vành, não, thận tuy nhiên máu ở động mạch đùi sẽ bị giảm.

  • Ức chế cơ trơn của ruột, chống co thắt dạ dày và làm tăng nhu động ruột.

  • Làm tăng hoạt động của tử cung ở cả phụ nữ có thai và chưa có thai.

Theo y học cổ truyền, tác dụng của Chỉ xác – Chỉ thực như sau:

  • Tan đờm, hành khí trệ, dẫn khí đi qua đường đại tiện (theo Trung Dược Học)

  • Hoa khiếu, tả khí, tả đờm (theo Bản Thảo Diễn Nghĩa)

  • Khai đạo kiên kết, tả vị thực, tiêu đờm tích, thông tiện bí, khứ đình thủy, phá kết hung (theo Dược Phẩm Hóa Nghĩa)

  • Tiêu tích, tả đàm, trừ bỉ tích, hành khí, phá khí (theo Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách)

Chỉ định điều trị:

  • Chỉ xác: Làm tan các chất kết lưu trong bụng, tiêu đầy trướng, yên dạ dày, tiêu đờm trệ ở ngực, phong nhập và đại tràng.

  • Chỉ thực: Chữa ngực bụng căng tràn, đại tiện không thông, thực tích đàm trệ.

4. Cách dùng – Liều lượng

Chỉ xác và Chỉ thực được sử dụng dưới dạng thuốc sắc hoặc tán thành bột mịn, có thể dùng độc vị hoặc kết hợp với các vị thuốc khác.

Liều dùng khuyến cáo: 4 – 12 g mỗi ngày.

Bài thuốc sử dụng Chỉ xác – Chỉ thực

Chỉ xác – Chỉ thực có thể dùng độc vị hoặc dùng kết hợp với các vị thuốc khác

1. Chữa trẻ nhỏ tiêu ra cơm nước không đều, lỵ lâu ngày không khỏi

Sử dụng 4 – 8 g Chỉ xác tán thành bột mịn, dùng pha với nước, uống mỗi ngày.

2. Thuận khí, cầm lỵ

Dùng 96 g Chỉ xác sao, 24 g Cam thảo, tán thành bột mịn, trộn đều. Mỗi lần sử dụng 8 g uống với nước ấm.

3. Chữa chứng khó tiêu ở trẻ nhỏ

Dùng Chỉ xác nướng kết hợp với Cam thảo, mỗi vị 4 g, sắc thành nước, dùng uống.

4. Chữa răng đau nhức

Dùng một lượng vừa đủ Chỉ xác – Chỉ thực, ngâm rượu, dùng để súc miệng.

5. Trị lở loét sưng đau

Bài thuốc thứ nhất: Sử dụng Chỉ xác nướng nóng chườm vào chỗ đau.

Bài thuốc thứ hai: Sử dụng bột nghiền Chỉ xác, bỏ vào bình nấu sôi thật lâu, sau đó dùng rửa vùng da bệnh.

6. Chữa nấc cụt do phong hàn, cảm mạo

Dùng chỉ xác 20 g, Mộc hương 4 g, tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng uống 4 g với nước sôi.

7. Điều trị ruột xệ xuống khi sau sinh sản

Dùng Chỉ xác sắc lấy nước, dùng ngâm.

8. Chữa phụ nữ đau bụng dữ dội khi mang thai

Dùng 120 g Chỉ xác (sao qua cám), 40 g Hoàng cầm, tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng uống 20 g với 1.5 chén nước. Nếu bụng phù căng thì có thể cho thêm 40 g Bạch truật.

9. Trị trẻ con động kinh, co giật, nghẹt đờm, nôn mửa

Sử dụng Chỉ xác bỏ múi và Đạm đậu khấu, mỗi vị phân lượng bằng nhau, tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng uống 1/2 muỗng cà phê, trường hợp nặng thì dùng 1 muỗng.

Nếu giật kinh phong cấp thì sử dụng Bạc hà giã nát, chắt lấy nước, dùng uống kèm thuốc. Nếu giật kinh phong mạn tính thì dùng Kinh giới nấu với 3 – 5 giọt rượu, uống kèm thuốc. Mỗi ngày uống thuốc 3 – 5 lần.

10. Chữa thương hàn do âm chứng, uống sai thuốc gây tức ngực nhưng không đau

Sử dụng Chỉ xác, Binh lang, mỗi vị phân lượng bằng nhau, tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng uống 12 g với nước sắc Hoàng liên.

11. Chữa trẻ nhỏ có mụn nhọt mềm, trong chứa dịch

Sử dụng 1 trái Chỉ xác lớn, mài cho bằng miệng, rồi dùng Hồ miến thoa quanh miệng dược liệu. Sau đó dùng úp dược liệu lên đầu mụn nhọt có thể ra hết máu, mủ và không để lại sẹo.

12. Hỗ trợ sáng mắt, làm lợi khí

Dùng 40 g Chỉ xác, sao đen, tán bột, dùng uống với nước.

13. Điều trị đầy hơi chướng bụng, khí huyết ngưng trệ

Sử dụng bài thuốc Tứ Diệu Hoàn bao gồm 160 g Chỉ xác (lưng còn xanh, bỏ múi) chia thành 4 phần. 40 g sao với Thương truật, 40 g sao với Hồi hương, 40 g sao với La bặc, 40 g sao với Can tất. Sau khi sao thì bỏ các vị thuốc đi, chỉ giữ lại Chỉ xác, tán bột, trộn đều, gia thêm nước trọn bột gạo làm thành viên hoàn kích thước bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần dùng uống 50 viên với nước cơm, sau khi ăn.

14. Chữa tiêu ra máu

Dùng 240 g Chỉ xác (sao đen với cám), 240 g Hoàng kỳ, tán thành bột. Mỗi lần dùng uống 8 g với nước cơm hoặc trộn với hồ làm thành viên hoàn.

15. Chữa xương sườn đau nhức

Dùng 40 g Chỉ xác, Đào chi 20 g, tán thành bột mịn. Mỗi lần dùng 4 g uống với nước sắc Gừng và Táo.

16. Tiêu tích, thuận khí, ngũ tích lục tụ

Dùng 3 cân Chỉ xác (bỏ múi và hạt). Mỗi trái Chỉ xác cho 1 hạt Ba đậu nhân vào, úp kín, nấu lửa nhỏ trong 1 ngày. Khi cạn nước thì đổ nước thêm, khi thêm cần thêm nước nóng, nấu đến khi cạn. Sau đó bỏ hạt Ba đậu đi, lấy phần Chỉ xác phơi nắng, sao khô, tán bột, gia thêm giấm gạo là, thành viên hoàn to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần dùng uống 30 – 40 viên.

17. Chữa đau nhức trong ngực, đau cứng ngay dưới tim, đau xóc từ xương sườn đến tim

Dùng 4 quả Chỉ thực (càng lâu năm càng tốt), 120 g Hậu phác, Qua lâu 1 trái, 240 g Phỉ bạch, 30 g Quế, 5 thăng nước. Đầu tiên, sắc Chỉ thực và Hậu phác, lấy nước bỏ bã, sau đó xong cho các vị thuốc còn lại vào sắc thành thuốc, chia làm 3 lần uống trong ngày.

18. Chữa bôn đồn khí thống

Dùng Chỉ thực sao đen, tán bột. Mỗi ngày uống 12 g, ngày uống 3 lần, đêm uống 1 lần.

19. Chữa phong chẩn ngoài da

Sử dụng Chỉ thực tẩm với giấm gạo, sao vàng, chườm vào bùng da bệnh.

20. Chữa lỵ gây sa trực tràng

Sử dụng Chỉ thực, mài đá nhẵn một mặt, sao vàng với mật ong, chườm đến khi trực tràng rút lên.

21. Chữa âm hộ đau sưng

Sử dụng 240 g Chỉ thực, giã nát, sao vàng, gói trong vải sạch, chườm lên chỗ đau. Khi nguội thì sao nóng và chườm lại đến khi hết đau.

22. Chữa trĩ kinh niên ở trẻ em

Dùng Chỉ thực tán thành bột mịn, luyện với mật ong làm thành viên hoàn. Mỗi lần dùng uống 30 viên uống lúc đói.

23. Trị táo bón

Dùng Chỉ thực, Tạo giáp, mỗi vị phân lượng bằng nhau, tán thành bột mịn, trộn với hồ, làm thành viên hoàn to bằng hạt ngô, dùng uống.

Kiêng kỵ và lưu ý khi sử dụng Chỉ xác – Chỉ thực

Kiêng kỵ:

  • Tỳ vị hư yếu, hàn mà không có thấp tích không nên dùng.

  • Phụ nữ có thai mà thân thể gầy yếu không dùng.

  • Không có khí trệ thực tà không nên dùng.

Lưu ý khi sử dụng: Chỉ xác và Chỉ thực có thành phần và tính chất tương tự nhau, tuy nhiên thu hái ở các thời điểm khác nhau. Về dược tính, trước khi Chỉ xác – Chỉ thực không phân biệt nhưng dược tính của Chỉ xác thường yếu hơn.

Tham khảo:

>> Cây Trấp còn cho rễ cây gọi là “Chỉ thụ căn bì” dùng ngâm rượu súc miệng để trị đau răng rất hay, hoặc dùng vỏ rễ nấu nước sắc uống trị chứng tiêu ra máu (Bản Thảo Thập Di).

>> Cạo lấy vỏ rễ cây, vỏ non trong cây, vỏ cành gọi là ‘Chỉ thụ nhự’ thân cây và vỏ trị thủng húp, bạo phong đau nhức khớp xương. Nó chữa được chứng trúng phong liệt, méo miệng, trong lúc chưa dùng thuốc gì nên cạo lấy vỏ da cây ngâm với rượu 1 đêm khi uống hâm nóng (Bản Thảo Đồ Kinh).

>> Muốn khai khí giữa ngực thì dùng Chỉ xác, khai khí ở dưới bụng thì dùng Chỉ thực. Chữa khí trệ thì dùng Chỉ xác, chữa khí kết thì dùng Chỉ thực. Duy cổ ngữ có nói Chỉ xác trị khí, Chỉ thực trị huyết, nhưng xét ra khí hành thì huyết thông, 2 vị đều là thuốc lợi khí chứ không phải là thuốc thông huyết. Cho nên dùng Chỉ thực với Bạch truật thì điều hòa được Tỳ mà dùng với Đại hoàng thì thúc đẩy được khí. Nếu người khí hư trướng mà dùng Chỉ thực thì không khác gì ôm củi mà chữa cháy (Bản Thảo Cầu Chân).

>> Chỉ thực vị đắng, cay, chua, hơi hàn, không độc, nhập vào kinh Túc dương minh và Túc  thái âm. Tính phù mà lại giáng xuống, hoàn toàn là dương dược, quả nhỏ mà tính mạnh, chữa phần dưới nhanh chóng, chủ về huyết. Phàm chứng ngực bụng bị đẩy trướng, phiền muộn, chất ăn cũ tích tụ, đờm đặc tích huyết, thì nó có công khai thông phá kết mau chóng, làm cho đổ vách xuyên tường. Dùng với Bạch truật trị chứng bỉ thuộc hư, nhưng tính nó dữ tợn, sức nó mạnh, người không có đình trệ kiêm tích thì chớ có dùng bừa bãi mà hại tới nguyên khí. Ông Vương Hải Tàng nói: bổ khí thì lấy Sâm, Truật, Can khương làm tá, để phá khí lấy Khiên ngưu, Mang tiêu, Đại hoàng làm tá (Dược Phẩm Vựng Yếu).

>> Cây còn cho lá non gọi là ‘Chỉ thụ nộn diệp’ sắc uống thay nước trà trị các chứng phong, trục phong (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).

>  Chỉ thực và Chỉ xác vốn là một, chỉ khác ở chỗ là non hoặc già. Tính vị về cơ bản đều giống nhau chỉ khác là Chỉ thực mạnh hơn còn Chỉ xác hoà hoãn hơn, cho nên muốn lý khí, khoan hung thường dùng Chỉ xác; Muốn tiêu kiên, phá tích, thường dùng Chỉ thực. Chỉ thực tác dụng  phá khí, tiêu tích mạnh hơn, có thể làm tổn thương chính khí, nếu không phải là chứng tà thực, không nên dùng (Thực Dụng Trung Y Học).

Phân biệt:

1. Chỉ thực và Chỉ xác đều là quả phơi khô của hơn 10 cây của chi Citrus và Poncirus học Cam (Rutaceae) nhưng thu hái ở hai thời kỳ khác nhau. Chưa xác định được tên chính xác. Ở Trung Quốc còn dùng Chỉ thực hoặc Chỉ xác với nhiều cây khác nhau như cây Câu kết, Chỉ (Poncirus trifolia Raf), cây Hương viên (Citrus wilsonii Tanaka), cây Toàn đăng hay Câu đầu đăng, Bì đầu đăng (Citrus aurantium L) cây Đại đại hoa (Citrus aurantium L Var Amara Engl). Có nơi còn dùng quả Bưởi non (Citrus grandis Osbeck) bổ đôi, phơi khô để làm Chỉ thực và Chỉ xác.

2. Chỉ thực gồm các quả nguyên hình cầu và quả bổ đôi hình bán cầu, đó là quả nguyên đường kính 0,5- 1cm, vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụng. Quả bổ đôi đường kính 0,5-1cm, vỏ ngoài màu nâu đen, có vết tích của cuống quả, bên phía đối diện có một chấm nhỏ lồi là vết tích vòi nhụy đã rụng. Quả bổ đôi đường kính 1- 1,5cm. Mắt cắt ngang có một vòng vỏ quả ngoài mỏng, màu nâu, sát vỏ có các túi tinh dầu lỗ chỗ, một lớp cùi màu gà vàng hoặc vàng nâu nhạt, hơi lồi lên, giữa là ruột màu đen nâu, có những múi hình tia nan hoa bánh xe. Có chất cứng chắc, vị đắng chát, mùi thơm nhẹ.

Thông tin mới cập nhật theo:

Chỉ Thực, Chỉ Xác – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Còn gọi là chỉ xác, xuyên chỉ thực, xuyên chỉ xác 

Tên khoa học Citrus sp.

Thuộc họ Cam Rutaceae.

Chỉ thực (Fructus Aurantii immaturi) và Chỉ  Xác (Fructus Citri aurantii) đều là quả phơi khô của chừng hơn 10 cây chi Citrus và Poncirus thuộc họ Cam Rutaceae nhưng thu hái ở thời kỳ khác nhau.

Chỉ thực là quả hải vào lúc còn non nhỏ, có khi do bị gió mạnh tự rụng dưới gốc cây (theo chữ Trung Quốc chỉ là tên cây, thực là quả).

Chỉ xác là quả hái vào lúc gần chín. Thường bổ đôi để phơi cho chóng khô. Chỉ xác thường to hơn chỉ thực và thường bổ đôi. Chị vẫn là tên cây, xác là còn vỏ và xơ vì quả bổ đôi phơi khô ruột quả bị quắt lại 

Những cây cung cấp chỉ thực và chỉ xác

Ngay tại Trung Quốc, người ta cũng hái chỉ thực và chỉ xác ở rất nhiều cây khác nhau, đây chỉ kể một số cây chính:

  1. Poncirus trifolia Raf. tên Trung Quốc là chỉ hay câu kết.
  2. Citrus wilsonii Tanaka tên Trung Quốc là hương viên.
  3. Citrus aurantium L. Tên Trung Quốc là toàn đăng hay câu đầu đăng, bì đầu đăng.
  4. Citrus aurantium L. var amara Engl. tên Trung Quốc là đại đại hoa.

Ở Việt Nam ta cũng hái rất nhiều cây khác nhau thuộc họ Cam quýt, việc xác định tên chính xác còn chưa làm được. Thường người ta nói đến cây chấp có lẽ thuộc vào cây Citrus hystrix D. C.

Chỉ Thực

Phân bố, thu hái và chế biến

Những cây có thể cho chỉ thực và chỉ xác mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi miền Bắc và miền Nam nước ta. Những năm trước thu mua ở nhiều tỉnh, nhưng trong năm 1962 chỉ thu mua chủ yếu Hà Tĩnh. Ta có thể nghiên cứu sử dụng những qủa rụng ở những nông trường trồng chanh cam của tại các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Nghệ An, Thanh Hóa.

Muốn có chỉ thực, thường vào các tháng tháng 6, người ta nhặt những quả non. rụng dưới gốc cây, rồi đem phơi khô hay sấy kh Nếu quả to thì bổ đôi mà phơi cho chúng. K phơi không nên phơi nắng quá, quả sẽ có màu vàng xấu.

Muốn có chỉ xác vào, tháng 7-8 hái những quả gần chín, vỏ còn xanh, bổ đôi rồi phơi hà sấy khô.

Thành phần hóa học

Chỉ thực, chỉ xác của ta chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.

Nghiên cứu chỉ thực của tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc, năm 1958 hệ dược, Viện y học Bắc Kinh tìm thấy 0,09% ancaloit; 20,49% glucozit; 5,86 saponin..

Trong chỉ xác tại đó người ta chỉ thấy có 9,89 glucozit.

Các hoạt chất khác chưa rõ.

Tác dụng dược lý

Trong những năm 50, một số tác giả Trung Quốc đã nghiên cứu tác dụng của chỉ thực và c xác trên súc vật. Sau đây là một số kết quả:

1. Tác dụng trên tử cung và trên dạ dày, ruột Năm 1955, Diệm ứng Bổng báo cáo (Trung Hoa học tạp chí 5: 433-437) đã dùng xuyên chỉ thị giang chỉ xác, giang chỉ thực, hồ chỉ xác, hồ c thực chế thành dung dịch nước 100% (thể tích rồi thí nghiệm trên động vật thì thấy rằng trên cung cổ lập của chuột nhất, dù có thai hay không có thai, đều có tác dụng ức chế, nhưng cũng trường hợp không thấy tác dụng. Đối với tử cung thỏ có lập hay tại chỗ, dù có chửa hay không chừa đều có tác dụng hưng phấn, nhưng cũng trường hợp không tác dụng hay có tác dụng chế. Đối với mẫu ruột cô lập của chuột nhất chủ yếu thấy tác dụng ức chế, nhưng cũng trường hợp không thấy phát sinh phản ứng. Đ với 36 lần thí nghiệm trên mẫu ruột tại chỗ t 70% thấy có tác dụng ức chế.

Tác giả còn dùng chỉ thực, chỉ xác chế thái cồn thuốc và cao lỏng để thí nghiệm so sánh v dung dịch nước thì thấy tác dụng giống nhau, so sánh với tác dụng của adrenalin, thì tác dụng cũng giống nhau. Tuy nhiên tác dụng của thí nghiệm so sánh trên tử cung cô lập của chuột nhất hay trên mẫu ruột cô lập của chuột nhất hay trên mẫu ruột cô lập của thỏ thì thấy tác dụng của adrenalin ngắn hơn là tác dụng của cồn chỉ xác và cao lỏng chỉ xác.

Năm 1956, Chu Tử Minh (Trung Hoa y học tạp chí 10: 946-953) đã báo cáo dùng giang chỉ thực và giang chỉ xác, xuyên chỉ thực và xuyên chỉ xác chế thành thuốc sắc 100% (theo thể tích) cho súc vật uống và thụt (đối với thỏ) hoặc cho vào qua lỗ dò của tử cung thỏ, dạ dày và ruột chó đẻ thí nghiệm lâu dài, thì thấy đối với tử cung của thỏ, dù có chừa hay không có chửa đều thấy tác dụng hưng phấn, đi tới co thắt mạnh lên, có thể tới co cứng. Đối với dạ dày và ruột chó cũng thấy tác dụng hưng phấn, làm cho dạ dày và ruột chuyển động mạnh lên nhưng có quy luật. Tác giả cho rằng phản ứng của tử cung thỏ và của người đối với thuốc rất giống nhau, vậy có phải vì chỉ thực và chỉ xác có tác dụng hưng phấn đối với tử cung của thỏ mà trong đông y đã dùng chỉ thực, chỉ xác để chữa sa tử cung, còn tác dụng trên dạ dày và ruột cô lập hoàn toàn ngược lại với tác dụng trên dạ dày và ruột tại chỗ có phải là có quan hệ đối với vỏ não không.

2. Tác dụng trên mạch máu, bộ máy tiết niệu và hô hấp: Diêm ứng Bổng đã dùng nước sắc 100% chỉ thực và chỉ xác thí nghiệm đối với huyết áp của chó đánh mê, do dung tích thận, lượng nước tiểu, tác dụng trên tìm ếch cô lập (phương pháp . Straub), trên huyết quản một loại cóc (theo phương pháp Frohlich) và trên khí quản của chuột bạch đã đi đến những kết quả sau day:

a) Huyết áp tăng cao, dung tích của thận giảm xuống.

b) Nồng độ thấp làm cho tim cô lập của loại các co bóp mạnh, nhưng ở nồng độ cao, sự co bóp lại giảm.

c) Tiêm tĩnh mạch chó gây mê thì thấy tiết niệu tạm thời ngừng lại.

d) Có tác dụng co thắt nhẹ đối với mạch máu của loại các.

e) Không thấy tác dụng giãn nở hay co thắt đối với chi khí quản của chuột bạch. Thí nghiệm bằng cồn hay cao lỏng chỉ thực và chỉ xác đều thấy kết quả tương tự.

Công dụng và liều dùng

Chỉ thực và chỉ xác đều là những vị thuốc thông dụng trong đông y. Theo tài liệu cổ chì thực và chỉ xác có vị đắng, chua, tính hơi hàn, vào hai kinh tỳ và vị. Tác dụng phá khí, tiêu tích, hóa đờm, trừ bì (báng ở bụng), lợi cách, khoan hung. Chỉ thực, chỉ xác tác dụng giống nhau nhưng chỉ xác yếu hơn. Mặc dầu trong các quả này lúc tươi có chứa tinh dầu, nhưng người ta ít chú ý dùng tinh dầu, vì các vị này càng để lâu càng cho là tốt hơn.

Cả hai vị đều là những thuốc có tác dụng giúp sự tiêu hóa, trừ đờm, táo thấp, lợi tiểu tiện, ra mồ hôi, yên dạ dày, ruột v.V…

Ngày dùng 6 đến 12g (có thể dùng hơn) dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.

Đơn thuốc có chỉ thực và chỉ xác

  • Chỉ truật thang: Chỉ thực 20g, bạch truật 6g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Dùng trong những trường hợp dạ dày và gan kém hoạt động, không đi là được (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh).
  • Bài thuốc chữa trẻ con đi lỵ, ăn uống thất thường: Chỉ xác sấy khô tán nhỏ. Mỗi ngày cho uống 2 lần, mỗi lần 3g.
  • Chữa đại tiện khó khăn: Chỉ thực 20g, bồ kết 20g. Hai vị tán nhỏ, làm thành viên bằng hạt ngô. Mỗi ngày uống 10 viên vào buổi tối, trước khi đi ngủ.
  • Người ta còn dùng chỉ thực và chỉ xác để chữa ho, hen, đờm xuyễn.

Tuy nhiên trong đông y, người ta còn khuyên là phụ nữ có mang, gầy yếu và những người tỳ vị hư hàn mà không thấp và tích trệ thì không nên dùng.