Vị thuốc Tích Tuyết Thảo (Herba Centellae)

Tích Tuyết Thảo, còn gọi là rau má, có tên khoa học là Centella Asiatica. Vị thuốc này có vị đắng, tính mát, quy vào kinh can và thận. Với các hoạt chất như asiaticoside, madecassoside, và flavonoid, Tích Tuyết Thảo giúp thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu và làm mát gan. Nó được sử dụng chủ yếu để trị các chứng viêm gan, viêm đường tiết niệu, và các vấn đề về da như mụn nhọt, rôm sảy. Liều dùng từ 10 - 30g dưới dạng thuốc sắc hoặc viên.

Jul 12, 2024 - 16:13
 0  5
Vị thuốc Tích Tuyết Thảo (Herba Centellae)
Tích Tuyết Thảo (Herba Centellae) 积雪草
  • Vị thuốc Tích Tuyết Thảo (Herba Centellae)

    Vị thuốc Tích Tuyết Thảo (Herba Centellae)
    Vị thuốc Tích Tuyết Thảo

    Vị thuốc: Tích Tuyết Thảo

    Tên khác: Lôi công thảo, rau má

    Tên Latin: Herba Centellae

    Tên Pinyin: Jixuecao

    Tên tiếng Hoa: 积雪草

    Tính vị: Vị hăng, đắng tính hàn

    Quy kinh: Vào kinh can, tỳ, thận, đại trường, tiểu trường

    Hoạt chất: Asiatic acid, 3-glucosylquercetin, brahmic acid, thankuniside, íothankuniside

    Dược năng: Thanh thấp nhiệt, thanh huyết, chỉ huyết, sáng mắt

    Liều Dùng: 9 - 15g

    Kiêng kỵ:

    Phụ nữ có thai không nên dùng

  • Cây Rau má-Centella asiatica , Apiaceae

    Cây Rau má-Centella asiatica , Apiaceae
    Hình ảnh cây rau má

    Tên khác: Tích tuyết thảo, Liên tiền thảo.

    Tên khoa học: Centella asiatica (L.) Urb., Apiaceae(họ Hoa tán).

    Mô tả cây: Cây thảo mọc bò, phân nhánh. Rễ mọc ở các mấu của thân. Lá mọc so le, nhưng thường tụ hợp 2-5 lá ở một mấu; có cuống dài, phiến hình thận hay tròn, mép khía tai bèo. Cụm hoa tán đơn mọc ở nách lá, hoa nhỏ màu trắng hoặc phớt đỏ; chỉ nhị ngắn; bầu hình cầu. Quả màu nâu đen, đỉnh lõm, có 7-9 cạnh lồi, nhẵn hoặc có lông nhỏ, có vân hình mạng. Mùa hoa quả vào tháng 4-6.

    Bộ phận dùng, thu hái và chế biến: Toàn cây (Herba Centellae  asiaticae) dùng tươi, phơi hoặc sấy khô.

    Thành phần hóa học: Saponin (asiaticosid, madecassosid, acid asiatic, acid madecassic…). Ngoài ra còn có flavonoid, alkaloid (hydrocotylin), tinh dầu.

    Công dụng và cách dùng: Rau má được dùng chữa sốt, giải độc, mụn nhọt, bệnh gan vàng da, chảy máu cam, làm lành vết thương, trị bỏng, táo bón, tả lỵ, tiểu tiện rắt buốt, khí hư bạch đới, mất sữa, hạ huyết áp. Ngoài ra còn chữa phong và lao

  • Rau má (Tích Tuyết Thảo)- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam

    Rau má (Tích Tuyết Thảo)- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam
    Hình ảnh cây rau má

    Còn gọi là tích tuyết thảo, phanok (Vientian), rachiek kranh (Campuchia).

    Tên khoa học Centella asiatica (L.) Urb., (Hydrocotyle asiatica L. Trisanthus cochinchinensis Lour.)

    Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).

    Mô tả cây

    Rau má là một loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mất chim, khía tai bèo, rộng 2-4cm, cuống dài 2-4cm trong những nhánh mang hoa và dài 10-12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3-5mm, có sống hơi rõ .

    Phân bố, thu hái và chế biến

    Mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước vùng nhiệt đới như Lào, Cămpuchia, Indonêxya, An Do v.v…

    Toàn cây khi tươi có vị đắng, hãng hơi khó chịu; khi khô thì chỉ còn mùi có khô. Thu hái quanh năm. Dùng tươi hay sao vàng

    Thành phần hoá học

    Rau má được nhiều người nghiên cứu, nhưng kết quả chưa thống nhất.

    1. Theo Basu và Lamsal (1947), trong rau má có một ancaloit gọi là hydrocotylin C22H33O8N, có độ chảy 210-212°C. Ancaloit này cho các muối oxalat với độ chảy 295°C, muối picrat với độ chảy 110-112″, muối cloroplatinat với độ chảy 134-136°C.
    2. Theo Buu Hoi, Rakoto Ratsimamanga và Boiteau, trong cây rau má thu hái ở đảo Mangat có chứa một glucozit gọi là asiaticozit với công thức C54H88O23. Thuỷ phân asiaticozit sẽ cho axit asiatic và glucoza. Chất glucozit này có tinh thể, tan trong rượu; độ chảy 230-233°C, có thể cho một dẫn xuất tan trong nước gọi là oxyasiaticozit có tác dụng điều trị được bệnh lao.
    3. Một số tác giả khác (Lythgoe và Trippet) nghiên cứu rau má mọc ở Xrilanca (1949) đã lấy ra được một glucozit khác đặt tên là xentelozit (centelloside) có tính chất gần như asiaticozit.
    4. Hiện nay, một số tác giả cho rằng hoạt chất của rau má là những saponin (axit asiatic, axit brahmic) có cấu trúc tri-tecpen, có tác dụng tới mô liên kết, giúp cho các mô tái tạo nhanh chóng, do đó làm cho vết thương mau lành và lên da non.

    Công dụng và liều dùng

    Rau má hiện nay còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân, đồng thời còn là loại rau người ăn được. Trong ca dao ta có câu:

    *Đói ăn rau mưng, rau má,

    Dừng ăn vất vả hư thân”.

    Nhân dân coi vị rau má là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc, có tính chất giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, dùng chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa.

    Ngày dùng 30 đến 40g tươi, vò nát vắt lấy nước uống hoặc sắc uống. Thuốc rau má không độc, phụ nữ có thai vẫn dùng được.

    Tại một số nước, người ta chú ý nghiên cứu rau má để tìm tác dụng chữa bệnh hủi và bệnh lao.

    Theo tập san Société des amis du parc botanique de Tananarive, 1941 và 1942 tại Mangát, người ta dùng rau má chữa hủi có kết quả tốt hơn chế phẩm của đại phong tử. Năm 1949, Lythgoe và Trippet đã nghiên cứu tác dụng chữa hủi của xentelozit. Ngoài ra, chất chế từ asiaticozt có tác dụng chống vi trùng lao.

    Ở một số nước, người ta chế rau má dưới dạng:

    1. Viên nén chứa 0,01g rau má (1) để chữa các chứng dãn tĩnh mạch, chứng nặng chân do máu ở các tĩnh mạch chân chậm trở về tim.

    Ngày uống 3-6 viên vào bữa ăn.

    1. Thuốc tiêm 1ml chứa 0,02g cao rau má. Cách 1 ngày tiêm bắp 1 ổng phối hợp bởi thuốc mỡ (1% cao rau má) hoặc thuốc bột chứa 2% cao rau má để chữa các vết bỏng, vết thương do chấn thương hoặc vết phẫu thuật, các tổn thương ở da và niêm mạc (tai, mũi, họng) hoặc sản phụ.

    Các đơn thuốc có rau má

    1. Chữa đau bụng, đi ỉa lỏng, đi lỵ

    Rau má (cả dây, cả lá) rửa sạch, thêm ít muối, nhai sống. Ngày ăn chừng 30-40g (kinh nghiệm nhân dân nhiều nơi). Có thể luộc rau má mà ăn như ăn rau.

    1. Chữa phụ nữ kinh nguyệt đau bụng, đau lưng:

    Rau má hải lúc ra hoa, phơi khô, tán nhỏ. Ngày uống một lần, vào lúc buổi sáng, mỗi lần hai thìa cà phê gạt ngang.

    1. Chữa rôm sảy, mẩn ngứa:

    Hàng ngày ăn rau má trộn dầu dấm. Hoặc rau má hái về, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường vào mà uống hằng ngày.

    Chú thích:

    Ngoài vị rau má Centella asiatica nói trên, trong nhân dân ta còn dùng vị rau má mơ, rau má họ hay thiên hồ thái Hydrocotyle rotundifolia Roxb. Loại cỏ có thân mọc bò, nhỏ, mang rễ ở những đốt; lá hình hơi tròn, mép khía tai bèo, đường kính nhỏ hơn loại trên, chừng 10-15mm, cuống dài 1-4cm, hoa nhỏ màu xanh nhạt. Quả dẹt, rộng chừng 1,5mm.

    Cây này mọc hoang ở những nơi ẩm thấp khắp nước ta. Có mọc ở những nước nhiệt đới và á nhiệt đới châu Á và châu Phi.

    Nhân dân dùng toàn cây chữa bệnh gan.

    (1) Cao rau má có thể chế như sau: Rau má phơi hay sấy khô. Chiết bằng còn 95% đun sôi. Cô thu hồi cồn. Bốc hơi tới dạng cao khô. Có thể chiết một lần nữa bằng N.butanol.