Mướp đắng, khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.))

Ở nước ta, ngoài công dụng làm thức ăn (nấu với thịt làm canh), mướp đắng còn được dùng làm một vị thuốc mát chữa ho, tắm cho trẻ để trừ rôm sảy, chữa sốt. Theo sách cổ Đông y, mướp đắng có vị đắng (khổ), tính hàn, không có độc.

Nov 25, 2021 - 11:29
 0  11
Mướp đắng, khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.))
Mướp đắng - Momordica charantia
Mướp đắng, khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.))

Cây Mướp đắng còn gọi là khổ qua, cẩm lệ chi, lại bồ đào, hồng cô nương, lương qua, mướp mủ, chua hao (Mường - Thanh Hoá).

Tên khoa học là Momordica charantia L. (Momordica balsamina Desc., Cucumis africanus Lindl.). Thuộc họ Bầu bí Cucurbitaceae.

A. Mô tả cây

Mướp đắng là một loại dây leo, thân có góc cạnh, ở ngọn hơi có lông tơ. Lá mọc so le, dài 5 -  10cm, rộng 4 - 8cm, phiến lá chia 5 - 7 thùy hình trứng, mép có răng cưa đều, mặt dưới lá màu nhạt hơn mặt trên, trên gân lá có lông ngắn. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá, đực cái cùng gốc, có cuống dài, cánh hoa màu vàng nhạt, đường kính của hoa chừng 2cm. Quả hình thoi dài 8 - 15cm, trên mặt có nhiều u nổi lên, quả chưa chín có màu vàng xanh, khi chín có màu vàng hồng, trong quả có hạt dẹt dài 13 - 15mm, rộng 7 - 8mm, trông gần giống hạt bí ngô, quanh hạt có màng màu đỏ máu như màng hạt Gấc.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mướp đắng được trồng ở khắp các tỉnh trong nước ta, ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Thường người ta trồng để lấy quả nấu ăn cho mát (giải nhiệt). Mùa quả ở miền Bắc vào các tháng 5 – 6 – 7.
 
Còn thấy mọc ở miền nam Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Giang Tô, Triết Giang). Tại một số nước đông nam châu Á như Ấn Độ, Malaixia, Philipin cũng thấy có.
 
Thường người ta dùng quả tươi. Hạt phơi khô và lá làm thuốc.
 
C. Thành phần hoá học

Quả có chứa một chất glucozit đắng gọi là momocdixin. Ngoài ra, còn có vitamin B1, C, ađenin, betain, protein (0.6%).
 
Hạt có chất dầu và một chất đắng chưa xác định. Năm 1950, Airan J. W. và N. D. Gatge (Ấn Độ) có nghiên cứu dầu và khô dầu của hạt mướp đắng (Chemical examination of Korlaplants - Chrrent Sci. India, 10/1950).
 
D. Công dụng và liều dùng

Ở nước ta, ngoài công dụng làm thức ăn (nấu với thịt làm canh), mướp đắng còn được dùng làm một vị thuốc mát chữa ho, tắm cho trẻ để trừ rôm sảy, chữa sốt. Theo sách cổ Đông y, mướp đắng có vị đắng (khổ), tính hàn, không có độc.
 
Ngày dùng chừng 2 quả, bỏ hết hạt, nấu mà ăn.
 
Hạt dùng với liều 3g hạt khô, dưới dạng thuốc sắc. Tại nhiều nước khác cũng dùng mướp đắng làm thuốc. Ví dụ, tại Pooctô-Ricô (một nước gần Cuba, châu Mỹ), mướp đắng được dùng chữa bệnh đái đường (Rivera C., 1941. Preliminary Chemical and pharmacological studies cundeamer Momordica charantia Linn - Amer, J. Pharm. 113: 291 - 296).
 
Tại Ấn Độ, nước ép của lá dùng làm thuốc gây nôn, thuốc tẩy trong những bêhnh về đường mật, nó có tác dụng chữa giun.
 
Đơn thuốc dùng mướp đắng dùng trong nhân dân:

Nước tắm cho trẻ con có nhiều rôm sảy: Mướp đắng 2 - 3 quả, nấu với nước để tắm cho trẻ em. Ngày 1 lần.
 
Chữa ho: Mướp đắng 1 - 2 quả, nấu với nước mà uống, chia làm 1 hay 2 lần trong ngày.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)