Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo (Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.))

Công dụng và tác dụng của Vị thuốc mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân: Người ta dùng thạch vĩ làm thuốc lợi tiểu tiện, dùng trong trường hợp tiểu tiện ra sỏi, tiểu tiện ra máu, viêm niệu đạo, bàng quang. Còn dùng làm thuốc bổ, thân rễ dùng chữa bệnh than, ung nhọt lở loét, ngộ độc do lưu huỳnh.

Oct 23, 2021 - 02:48
 0  42
Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo (Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.))
Thạch vi hay còn gọi cỏ lưỡi mèo, ráng hỏa mạc lưỡi, kim tinh thảo (Tên khoa học: Pyrrosia lingua) là một loài thực vật có mạch trong họ Polypodiaceae. Loài này được Carl Peter Thunberg miêu tả khoa học đầu tiên năm 1784 dưới danh pháp Acrostichum lingua. Năm 1931 Oliver Atkins Farwell chuyển loài này sang chi Pyrrosia.
Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo (Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.))
Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo (Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.))
Thạch vĩ, thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo (Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.))

Cây Thạch Vĩ còn gọi là thạch bì, thạch lan, phi đao kiếm, kim tinh thảo.

Tên khoa học:  Pyrrosia lingua (Thunb.) Farwell (Cyclophorus lingua Desv., Polypodium lingua Siv.). Thuộc họ Dương xỉ Polypodiaceae.

A. Mô tả cây

Cây thạch vĩ là một loại dương xỉ nhỏ, có thân rễ nằm ngang, dài tới 0.5m, dày vào khoảng 4mm, có nhiều nhánh phân chia theo lối đơn túc. Trên thân rễ có nhiều vẩy to, ở mặt dưới từng quãng có nhiều rễ hình sợi, phân nhánh mọc đối. Lá có hai loại: Lá bất thụ và lá hữu thụ. Lá hữu thụ có cuống dài tới 9cm, phiến lá hình lưỡi mác rộng, dài 11 - 13cm, rộng 2 - 3cm. Mặt trên nhẵn màu xanh lục, mặt dưới màu nâu nhạt, có nhiều ổ tử nang phủ khắp trừ trên gân giữa. Nhìn qua kính hiển vi, ta sẽ thấy ổ từ nang cấu tạo bởi một đám tử nang phân cách nhau bởi những lông hình sao có cuống dài. Các lá bất thụ có cuống ngắn hơn, chừng 5cm, với phiến lá hình trái xoan hơi hình mác, dài khoảng 9 – 11cm, rộng 3 - 4cm. Mặt trên màu lục nhạt, mặt dưới màu lục nâu, gân lá hình lông chim. Cả hai mặt đều nhẵn.

B. Phân bố, thu hái, và chế biến

Cây thạch vĩ mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, thường hay gặp mọc bám trên các cây to hoặc trên các bức tường cũ nát. Còn thấy mọc cả ở Trung Quốc (Phúc Kiến, Đài Loan, Triết Giang, Giang Tô, An Huy, Hoa Nam), Nhật Bản.
 
Người ta dùng lá, toàn cây hay thân rễ tươi hay phơi khô. Có thể thu hái quanh năm.
 
C. Thành phần hóa học

Sơ bộ nghiên cứu vị thuốc, thấy có phytosterol, tanin thuộc loại pyrocatechic, những đường khử ôxy, các chất béo và các chất vô cơ (G. Herman, 1. Ciulei và Vũ Văn Chuyên, 1960).
 
D. Tác dụng dược lý

Tác dụng trên giun đất: Lấy 350g cây, dùng ête etylic lấy kiệt trong máy soxhlet. Bốc hơi chỗ êtê, sẽ được chừng 13g cao. Chất cao này không có tác dụng trên giun đất. Bã còn lại sau khi chiết bằng ête, được chiết lại bằng cồn 90o, rồi bốc hơi rượu sẽ được 14g cao mềm. Hòa tan cao này trong nước cất. Dùng dịch cao này trong nước với nồng độ 5% thử trên giun đất, làm giun chết sau 45 phút.
 
Phòng thí nghiệm Ký sinh trùng thuộc Trường Đại học Y khoa Hà Nội (1960) có thử tác dụng trên nhiều loại ký sinh trùng khác nhau, thì thấy có tác dụng rõ rệt đối với sán lá ruột (Fasciolopsis buskỵ: Ký sinh trùng chết sau 15 phút khi cho thuốc.
 
E. Công dụng và liều dùng

Tính vị theo tài liệu cổ: Vị đắng ngọt, hơi hàn, vào hai kinh phế và bàng quang. Có tác dụng lợi tiểu, thông lâm, thanh thấp nhiệt. Làm thuốc lợi tiểu.
 
Vị thuốc mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân: Người ta dùng thạch vĩ làm thuốc lợi tiểu tiện, dùng trong trường hợp tiểu tiện ra sỏi, tiểu tiện ra máu, viêm niệu đạo, bàng quang. Còn dùng làm thuốc bổ, thân rễ dùng chữa bệnh than, ung nhọt lở loét, ngộ độc do lưu huỳnh. Nấu với dầu, bôi lên nơi tóc không mọc để chữa bệnh tóc rụng.
 
Ngày dùng 6 đến 12g dưới dạng thuốc sắc.
 
Chú thích

Ngoài cây thạch vĩ kể trên, người ta còn dùng nhiều loại Pyrrosia khác như Pyrrosia sheareri (Bar.) Ching (Lô sơn thạch vĩ), Pyrrosia petiolosa (Christ) Ching, Pyrrosia pekinensis (C. Chr) Ching,... cùng họ và cùng một công dụng.

Một số loài thạch vĩ khác
 
Năm 1958, Viện Nghiên cứu Y học Bắc Kinh (Hệ dược) có nghiên cứu vị thạch vĩ Pyrrosia sheareri thì thấy trong thạch vĩ có chừng 0.83% saponozit, chất tanin, anthraglucozit và phản ứng flavonozit.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)