Cây Sòi, ô cửu, ô thụ quả, ô du, thác tử thụ, mộc tử thụ, cửu tử thụ ( Sapium sebiferum (L.). Roxb. (Croton sebiferum L. Stillingia sebifera Michx.))
Sòi thường dùng chữa: Phù thũng, giảm niệu, táo bón; Bệnh sán máng, cổ trướng, xơ gan; Viêm gan siêu vi trùng; Ngộ độc nhân ngôn; Rắn độc cắn. Thân và lá dùng chữa viêm mủ da, ngứa lở thấp chẩn, chai cứng.
Cây Sòi còn gọi là ô cửu, ô thụ quả, ô du, thác tử thụ, mộc tử thụ, cửu tử thụ.
Tên khoa học: Sapium sebiferum (L.). Roxb. (Croton sebiferum L. Stillingia sebifera Michx.). Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.
Cây sòi cho các vị thuốc sau đây:
1. Vỏ rễ (Ô cửu căn bì - Radix Sapii): Là vỏ rễ phơi hay sấy khô của cây sòi. Có khi người ta dùng cả vỏ thân, nhưng hay dùng vỏ rễ hơn.
2. Dầu hạt sòi (Cửu chi hay Ô cửu chi hay Bì du - Oleum Sapii): Là hỗn hợp chất sáp bọc lớp ngoài của hạt và dầu ép từ hạt sòi.
Tên gọi là ô cửu vì chim quạ (ô) thích ăn hạt cây này.
A. Mô tả cây
Sòi là một cây nhỡ, cao chừng 4 - 6m sống lâu năm. Thân màu xám, lá mọc so le, sớm rụng, cuống dài 3 - 7cm, phiến lá hơi hình quả trám dài, rộng 3 - 9cm, đầu lá nhọn dài, hai mặt đều màu xanh, bóng không có lông, mép nguyên, khi còn non thì mềm và mỏng. Hoa mọc thành bông dài 5 - 10cm ở kẽ lá hay đầu cành, đơn tính, hoa đực chiếm phần trên của bông, về sau ở phía dưới bông mới thấy xuất hiện 1 - 4 hoa cái. Cánh màu trắng vàng hay vàng. Quả hình cầu, đường kính chừng 12mm, khi chín có màu đen tía, 3 ngăn, mỗi ngăn có một hạt hình trứng, trên mặt có đường rãnh dọc, trong hạt có dầu, ngoài hạt có một lớp sáp trắng gọi là bơ sòi hay mỡ thảo mộc. Mùa hoa từ tháng 3 - 4, mùa quả vào tháng 9.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cây sòi mọc hoang ở khắp nơi trong nước ta, nhưng tại miền Bắc và miền Trung, nhân dân thường trồng để lấy lá nhuộm lụa hay sa tanh màu đen.
Còn mọc hoang và được trồng tại các nước khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ. Tại những nước này người ta trồng để lấy hạt ép dầu. Trái lại, ở nước ta do cắt nhiều lá để nhuộm cho nên ít quả.
Muốn lấy hạt, người ta hái vào mùa thu, cuối thu. Quả hái về phơi khô, đập lấy hạt, hạt này đặt trên một cái chỗ có lỗ nhỏ đun nóng lên thì lớp sáp bọc ngoài hạt sẽ chảy ra, để nguội sáp này đông đặc là loại sáp tốt nhất. Sau khi lớp sáp bọc ngoài hạt đã chảy rồi, đem giã nhỏ hạt còn lại và ép thì sẽ được thứ dầu lỏng. Nếu hạt lấy được đem giã nhỏ rồi ép ngay thì ta sẽ được bốn lớp sáp ở ngoài vỏ hạt và dầu lỏng của nhân.
Tại nhiều nước, người ta để riêng các loại dầu trên ra hay trộn chung tất cả với nhau. Ví như tại Trung Quốc, dầu ép được từ nhân (sau khi đã bỏ lớp sáp ở ngoài hạt đi rồi) thì gọi là tử du hay cửu du, sáp lấy từ lớp vỏ ngoài gọi là bì du, dầu do hỗn hợp lớp sáp ngoài và dầu trong nhân thì gọi là mao du hay mộc du.
C. Thành phần hóa học
Trong vỏ rễ có một loại tinh thể không màu hình trụ, có công thức thô là C10H12O4, cấu tạo hóa học đã được xác định là pholoraxetophenon 2-4 dimetyl ete, chất này có tác dụng sát trùng đường ruột.
Trong vỏ rễ sòi người ta còn chiết được xanthoxylin C10H12O4 và một tinh thể có độ chảy 200oC (Dược học Học báo - 1958, 6, 51 và Hoá học Học báo - 1957, 23, 259). Trong lá sòi có chất béo, vitamin E (C. A. 1965, 63, 4663g), tanin 8.7%, từ lá tươi chiết được corilagin C27H22O18, axit ellagic, axit galic và izoquexitro-zit (Arthur H. R. Symposium on Phytochemistry 1964, 164).
Theo Pradhan B. P. et al. (Indian J.Chem, 1973, II, 1217 - 1220), trong vỏ thân sòi có 3-4 di-O-methylellagic axit C16H10O8 và axit sebiferic C30H48O2.
Từ hạt lấy ra được các thành phần sau đây:
Lớp sáp bao bọc quanh vỏ hạt (có thể chiết bằng ête). Hiệu suất 19 - 20%. Sáp này màu trắng nhạt, độ chảy 58o, chỉ số xà phòng 195.6, chỉ số iot (Hubl ở 22o) là 28.5.
Trong nhân có chừng 20% dầu lỏng nữa.
Thường chỉ có loại dầu lỏng ép từ nhân hạt sòi sau khi đã loại bỏ lớp sáp và lớp vỏ nhân đi rồi có thể dùng ăn được, còn loại sáp và hỗn hợp dầu và sáp thường chỉ dùng trong kỹ nghệ làm xà phòng hay làm nến.
Năm 1953, Crossley A. và Hiditch T. P. J. Sei. Food Agr. Br. đã nghiên cứu thấy trong dầu nhân hạt sòi có axit decadienoic, linolenic, linoleic và các glyxerit tripoly-etenoit.
Khô dầu sòi chứa rất ít chất đạm và có giá trị phân đạm kém. Nhưng năm 1948, Holland Br. Meink W. đã thấy trong chất protit của nhân hạt sòi có các axit amin như xystin 1,3, histidin 2,9, lyzin 2, metionin 1,6 và một lượng đáng kể vitamin B.
D. Công dụng và liều dùng
Sáp của hạt sòi có thể thay bơ ca cao để chế thuốc đạn (suppositoire), chế xà phòng, trộn với sáp ong làm nến, bôi tóc và chữa một số bệnh ngoài da. Muốn dùng thay bơ ca cao chế thuốc đạn, sáp sòi cần được trộn với 30 - 50% dầu lạc để hạ độ chảy từ 58o xuống khoảng 42o – 41o – 40o.
Vỏ rễ cây sòi là một vị thuốc được dùng trong nhân dân để chữa các bệnh bạo thủy, chưng kết, tích tụ, thủy thũng (với những triệu chứng biểu hiện như sau: bụng đầy trướng, đại tiểu tiện đều khó khăn, có trướng nước ở vùng dưới cạnh sườn).
Năm 1957 (Trung dược Thông báo, 5/1957) đã chứng minh được vỏ rễ sòi có tác dụng chữa bênh huyết hấp trùng (Schistosomiasis) gây ra lá lách và gan sưng to, bụng trướng nước, thiếu máu trầm trọng và bệnh viêm gan có tính chất truyền nhiễm (Phúc Kiến Trung y dược, số 8/1959) với những triệu chứng nước tiểu sánh, ít, đại tiểu tiện không thông, hoàng đản, sườn bên phải sưng đau, ăn uống kém ngon, sốt,…
Đào lấy rễ (có thể dùng vỏ thân, nhưng tác dụng kém hơn) loại bỏ lõi và lớp vỏ đen nâu bên ngoài, chỉ lấy lớp vỏ lụa, có thể dùng tươi hay phơi khô tán nhỏ.
Liều dùng trung bình: Người lớn ngày uống 10 - 12g dưới dạng bột (có thể dùng tới 50 - 60g), trẻ con dùng trung bình 5 - 10g (có thể dùng tới 20 - 25g). Thường dùng từ 7 - 10 ngày đã thấy kết quả.
Nếu dùng vỏ lụa tươi thì sắc với nước mà uống. Liều vỏ tươi gấp 3 liều vỏ khô hay bột vỏ khô.
Ngoài những công dụng trên, lá và rễ sòi còn được dùng chữa rắn độc cắn: Lá hay vỏ rễ tươi giã lấy nước uống, bã đắp lên vết rắn cắn.
Đơn thuốc có dầu sòi và vỏ sòi dùng trong nhân dân
1. Đơn thuốc chữa mụn nhọt mẩn ngứa, nước vàng chảy đến đâu mụn mọc đến đấy: Dầu hạt sòi (cả lớp sáp và nhân) 100g, nước 100g, hồng đơn 50g. Đun dầu và nước cho nóng rồi thêm hồng đơn vào, khuấy đều, đun sôi nước, hễ nước bốc hơi đi lại thêm vào cho đến khi hồng đơn mất màu, dùng cao này bôi lên các mụn nhọt, mạch lươn trên đầu.
2. Thuốc viên chữa bệnh thủy thũng, bụng trướng to, ăn uống kém ngon: Vỏ rễ cây sòi chỉ lấy lớp vỏ lụa phơi khô tán nhỏ, dùng nước cơm mà viên bằng hạt đậu xanh hoặc dùng táo đen Trung Quốc (một phần táo đen nấu với 6 phần nước cho đến khi được một thứ nước hồ nhão, thì đem rây để loại bỏ bột), trộn với bột vỏ rễ mà viên, gọi là ô táo hoàn.
Tùy theo bệnh nặng hay nhẹ àm dùng mỗi ngày 10 đến 20g viên thuốc nói trên. Có thể tăng hơn, dùng nước cơm hay nước cháo mà chiêu thuốc.
Chú ý
Trong cuộc điều tra sưu tầm những bài thuốc chữa bệnh huyết hấp trùng trong nhân dân Trung Quốc, người ta đã phát hiện thấy tại tỉnh An Huy, huyện Minh Quốc có bài thuốc gia truyền bảy đời của ông Diệp Thanh Hoàng: Chỉ dùng có vị rễ sòi để chữa bệnh bụng trướng. Thí nghiệm áp dụng trong một số trường hợp bệnh huyết hấp trùng thấy có kết quả tốt: bụng xẹp nhỏ lại, gan thu nhỏ lại, bệnh nhân ăn ngon, khỏe mạnh lại.
Kinh nghiệm đó lại phù hợp với những tài liệu cổ truyền. Cần chú ý nghiên cứu với cây sòi của Việt Nam.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |