Cây Sơn, Sơn lắc, tất thụ (Trung Quốc), arbre à laque (Pháp) (Rhus succedanea Linné - Rhus vernicifera D. C.)

Công dụng và tác dụng Sơn khô được dùng làm thuốc từ lâu đời với tên can tất. Theo tài liệu cổ, can tất có vị cay, tính ôn, không độc, có tác dụng phá huyết, tiêu tích, táo thấp sát trùng, đốt lấy khói hớp vào cổ họng chữa hầu tê, thường dùng trị giun đũa, giun kim, phụ nữ đau bụng có hòn khối.

Oct 25, 2021 - 12:14
 0  9
Cây Sơn,  Sơn lắc, tất thụ (Trung Quốc), arbre à laque (Pháp) (Rhus succedanea Linné - Rhus vernicifera D. C.)
Sơn, Sơn Phú thọ, Sơn lắc - Rhus succedanea L., (Toxicodendron succedanea (L.) Mold.) thuộc họ Đào lộn hột - Anacardiaceae.
Cây Sơn,  Sơn lắc, tất thụ (Trung Quốc), arbre à laque (Pháp) (Rhus succedanea Linné - Rhus vernicifera D. C.)

Cây Sơn còn gọi là tất thụ (Trung Quốc), arbre à laque (Pháp).

Tên khoa học: Rhus succedanea Linné - Rhus vernicifera D. C. Thuộc họ Đào lộn hột Anacardiaceae.

Cây sơn, ngoài công dụng là một cây công nghiệp vì cho chất sơn, còn cho một vị thuốc mang tên can tất (can là khô, tất là sơn vì sơn để lâu ngày khô kiệt rắn lại dùng làm thuốc).
 
A. Mô tả cây

Cây nhỡ, lá kép lông chim lẻ, có 3 - 6 đôi lá chét. Lá chét mỏng, nguyên, nhẵn, phiến hình thuôn mũi mác, đầu nhọn, phần gốc không đều, mép nguyên. Hoa tập họp thành chùy đơn, nhẵn hoặc hơi có lông, đài hợp, phía trên xẻ thành răng, tràng 3, nhị 5, quả bạch hơi dẹt, không có lông. Mùa hoa vào tháng 4, mùa quả chính vào tháng 11.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang hay được trồng ở Việt Nam, nhiều nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc (Thanh Ba, Cẩm Khê, Tam Nông,...). Còn thấy ở Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên. Còn mọc ở Trung Quốc, Nhật Bản.
 
Trồng bằng hạt vào tháng 10. Trước khi gieo, ngâm hạt vào nước 48 giờ để cho chóng mọc. Khi cây lớn, trồng thành hàng cách nhau 2m. Năm thứ 3 trở đi có thể lấy nhựa. Dùng dao con khía vào một nửa thân theo hình chữ V, khía từ phía dưới gốc lên. Cứ khía một phía cây cho tới 2.5m sẽ bắt đầu khía sang phía bên kia. Khía xong, cắm ở góc nhọn chữ V một mảnh vỏ con trai (hến) để hứng nhựa. Cần tránh nắng quá, vì như vậy sơn sẽ bị oxy hóa, kém giá trị.
 
Ra ngoài trời, sơn sẽ sẫm màu và có một màng màu đen sẫm, không tan trong các dung môi thông thường, chịu tác dụng của axit và kiềm, do đó sơn là một chất rất quý có thể dùng trong nhiều công việc. Sơn ta không dẫn điện (hơn cả mica). Để khô tự nhiên chịu được nhiệt độ 410°C mà không bị hỏng. Sấy khô có thể chịu tới nhiệt độ 550oC.
 
C. Thành phần hóa học

Sơn thuộc loại nhựa dầu (oleoresin). Thành phần chủ yếu là chất laccol, một diorthophenol có đính một dây truyền ngang không no. Laccol chịu ảnh hưởng của men laccaza có sẵn trong sơn, dễ bị oxy hóa trong môi trường oxy của khí trời để thành một chất bóng đen rất bền.

Laccol và Urushiol

Năm 1883, Hikorokuro Yoshida đã lấy ra từ sơn chất axit urushic hay axit lacxic hay urushiol chiếm tới 80%. Nhưng đây chỉ là một hỗn hợp 5 thành phần khác nhau, tỷ lệ khác nhau tùy theo nguồn gốc.
 
Urushiol I R    = (CH2)14-CH3
Urushiol II R   = (CH2)7-CH=CH-(CH2)5-CH3
Urushiol III R  = (CH2)7-CH=CH-CH2-CH=CH-(CH2)2-CH3
Urushiol IV R = (CH2)7-CH=CH-CH2-CH=CH-CH=CH-CH3
Urushiol V R  = (CH2)7-CH=CH-CH2-CH=CH-CH2-CH=CH2
 
D. Công dụng và liều dùng

Sơn khô được dùng làm thuốc từ lâu đời với tên can tất. Theo tài liệu cổ, can tất có vị cay, tính ôn, không độc, có tác dụng phá huyết, tiêu tích, táo thấp sát trùng, đốt lấy khói hớp vào cổ họng chữa hầu tê, thường dùng trị giun đũa, giun kim, phụ nữ đau bụng có hòn khối. Khi dùng nên giã nát sao chín, nếu dùng sơn sống sao khô cũng được. Tuy nhiên, nhiều người không chịu được sơn hay bị lở sơn. Người ta cho rằng, nguyên nhân gây lở sơn là do một chất độc bốc hơi được có ở trong sơn với một lượng rất nhỏ. Khi đã bị lở sơn, người ta giã lá khế đắp lên nơi bị lở.
 
Trong công nghiệp, sơn chủ yếu được dùng trong công nghiệp sơn, trong mỹ nghệ (tranh sơn mài), đồ dùng không dẫn điện, sơn các dụng cụ cần chịu cồn, axit và kiềm.
 
Đơn thuốc có sơn: Chữa các chứng hầu tê châm chích không tới được. Dùng can tất đốt lấy khói thổi vào cổ họng.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)