Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))

Cây thuốc Thành ngạnh chỉ mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc giúp sự tiêu hóa, ăn ngon cơm, hằng ngày hoặc khi yếu đau, sau khi đẻ.

Oct 21, 2021 - 09:45
 0  32
Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))
Hình ảnh cây Thành ngạnh - Cratoxylon prunifolium
Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))
Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))
Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))
Thành ngạnh, cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu) (Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz))

Cây Thành ngạnh còn gọi là cây đỏ ngọn (Vĩnh Phú), lành ngạnh, ngành ngạnh, may tiên, ti u (Lai Châu).

Tên khoa học: Cratoxylon prunifolium Dyer (Cratoxylon pruniflorum Kurtz). Thuộc họ Ban Hypericaceae.

A. Mô tả cây

Cây nhỏ có gai ở gốc (để tự nhiên cây có thể cao to, cho gỗ), cành non có lông tơ, dần dần trở nên nhẵn và có màu tro. Thân phía ngọn có màu đỏ do lông tơ màu đỏ (đỏ ngọn). Lá hình mác dài 12 - 13cm, rộng 35 - 40mm, mọc đối, cuống ngắn 3 - 5mm, mặt gân chính đỏ đến 1/3, lá non gân lá và lá có màu đỏ đến quá nửa. Hoa mọc trên những cành ngắn có lóng màu tía. Quả nang, dài 15mm, rộng 7 - 8mm. Hạt hình trứng dài 6mm, rộng 3mm.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây mọc hoang tại các tỉnh miền Bắc, nhất là trên các đồi trọc của vùng trung du. Còn mọc ở Malaixia.
 
Thường người ta hái lá để pha nước uống và làm thuốc. Dùng tươi hay ủ rồi phơi khô mới dùng.
 
C. Thành phần hóa học

Năm 1995, Nguyễn Liêm và cộng sự (Học viện Quân y) đã xác định sự có mặt của tanin và flavonoid trong lá thành ngạnh.
 
D. Tác dụng dược lý

Nguyễn Liêm và cộng sự đã xác định dịch nước chiết của lá đỏ ngọn (1/16) có tác dụng chống oxy hoá mạnh, hoạt tính chống oxy hoá (HTCO) đạt 69% so đối chứng với P < 0.001. Nếu so sánh với một vài vị thuốc khác, ta sẽ thấy lá thành ngạnh đứng đầu, sau đến dịch chiết cồn 1/32 bụt mọc 69%, dịch chiết nước lá chè tươi 1/8 với HTCO 68.5%, dịch chiết cồn vỏ xoan trà 1/80 với HTCO 64.5%, sau đến dịch chiết cồn đậu đen (1/1) với HTCO 57.1%, tất cả đều so đối chứng với P < 0.001.
 
E. Công dụng và liều dùng

Chỉ mới thấy dùng trong phạm vi nhân dân làm thuốc giúp sự tiêu hóa, ăn ngon cơm, hằng ngày hoặc khi yếu đau, sau khi đẻ.
 
Ngày uống chừng 15 - 30g lá khô dưới hình thức thuốc sắc hay thuốc pha như pha trà. Có khi phối hợp với lá vối nấu nước uống cho tiêu cơm.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)