Dây gắm, dây sót, dây mấu gắm núi: Chữa lở sơn, Hỗ trợ chữa phong thấp, Chữa đau nhức gân xương

Theo y học cổ truyền dây gắm có vị đắng, tính bình, có tác dụng khu phong, trừ thấp, thư cân hoạt huyết, giải độc, tiêu viêm, sát trùng.

Jan 9, 2024 - 20:10
 0  7
Dây gắm, dây sót, dây mấu gắm núi: Chữa lở sơn, Hỗ trợ chữa phong thấp, Chữa đau nhức gân xương
Còn gọi là dây sót, dậy mấu, dây gắm lót, vương tôn. Tên khoa học Gnetum montanum Mgf.. (Gnetum scandens Roxb, Gnetum edule Kurz. Gnetum latifolium Parl.)

Dây gắm hay còn gọi là dây sót, dây mấu gắm núi, người Thái gọi là bản thăn muối. Là dây leo mọc cao, dài đến 10-12m. Thân to, phình lên ở các đốt. Lá nguyên, mọc đối, phiến hình trái xoan, thuôn dài, mặt tròn trên nhẵn bóng. Hoa đực và hoa cái khác gốc, tập trung thành nón. Quả có cuống ngắn, khi chín có màu vàng, hạt to. Cây ra hoa tháng 6 - 8, có quả tháng 10 - 12. Cây mọc hoang ở rừng núi khắp nước ta như Sapa, Hà Giang, Tuyên Quang,.. Rễ và dây thu hái quanh năm, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô.

Theo y học cổ truyền dây gắm có vị đắng, tính bình, có tác dụng khu phong, trừ thấp, thư cân hoạt huyết, giải độc, tiêu viêm, sát trùng.

Sau đây là một số bài thuốc:

Chữa lở sơn: Lấy rễ gắm 20g, cho 300ml nước sắc nhỏ lửa còn 150ml, ngày uống 2 lần.

Hỗ trợ chữa phong thấp: Rễ gắm, rễ cà gai leo, vỏ chân chim, rễ cỏ xước, dây đau xương, rễ tầm xuân, mỗi vị 20g, cho 500ml, sắc còn 200, ngày 2 lần. Dùng liền 15 ngày.

Chữa đau nhức gân xương: Rễ gắm, rễ rung rúc, vỏ cây hoa giẻ, ngũ gia bì mỗi thứ 80g, rễ bướm bạc, rễ tầm xuân, rễ bưởi bung, rễ cỏ xước, rễ ô dược, tầm cửi dâu, rễ bạch đồng nữ, rễ xích đồng nam mỗi thứ 40g, rễ chỉ thiên, cỏ roi ngựa, mỗi thứ 20g thái nhỏ phơi khô, ngâm với 2 lít rượu trắng, đậy kín, sau 15 ngày, mỗi ngày uống một chén nhỏ, uống trước khi đi ngủ. Tuy nhiên, tùy từng thể trạng mà có thể các vị trên gia giảm nên trước khi áp dụng cần được lương y có uy tín bắt mạch kê đơn. Lương y Phó Hữu Đức

Cây Gắm (Dây Sót) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi

Còn gọi là dây sót, dậy mấu, dây gắm lót, vương tôn.

Tên khoa học Gnetum montanum Mgf.. (Gnetum scandens Roxb, Gnetum edule Kurz. Gnetum latifolium Parl.)

Thuộc họ Dây gắm Gnetaceae.

Mô tả cây

Cây gắm là một loại dày mọc leo trên các cây to tới 10-12m, thân rất nhiều mẫu. Lá mọc đối hình trứng, thuôn, dài tới 30cm, rộng 12cm. Hoa khác gốc. Nón đực mọc thành chùm dài 8cm ở các mẫu cành, phân nhánh 2 lần. Nón cái gồm nhiều “hoa”: Mọc vòng từ 20 hoa một. Quả có cuống ngắn, dài 12-26mm, rộng 11-13mm, bóng, trên phủ một lớp như sáp.

Phân bố, thu hái và chế biến

Dây gắm mọc hoang tại các vùng rừng núi khắp nước ta, lạnh như rừng Sapa hay nóng như rừng Hà Giang, Tuyên Quang, Hà Tây đều có gặp. Thường người ta dùng quả để ăn, dạy để làm chạc hay thừng buộc thuyền bè và làm thuốc.

Thành phần hoá học

Chưa thấy có tài liệu nghiên cứu

Công dụng và liều dùng 

Trong nhân dân thường dùng dây gắm sắc uống làm thuốc giải các chất độc như bị sơn ăn, ngộ độc. Còn được dùng làm thuốc chữa sốt và sốt rét.

Ngày dùng 15 đến 20 hay 30g dưới dạng thuốc sắc hay ngâm rượu.