Xương rồng, bá vương tiêm, hóa ương lặc (Euphorbia antiquorum L)

Cây xương rồng còn có tên khác là Bá vương tiên, hóa ương lặc. Theo Đông Y, Xương rồng ông Vị đắng, tính hàn, có độc. Ta thường dùng cành chữa đau răng, sâu răng và mụn nhọt.

Oct 11, 2021 - 12:06
 0  50
Xương rồng, bá vương tiêm, hóa ương lặc (Euphorbia antiquorum L)
Xương rồng - Euphorbia antiquorum
Xương rồng, bá vương tiêm, hóa ương lặc (Euphorbia antiquorum L)

Cây xương rồng còn gọi là bá vương tiêm, hóa ương lặc.

Tên khoa học: Euphorbia antiquorum L. Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.

A. Mô tả cây

  • Cây xương rồng là một cây nhỡ, có thể cao tới 7 - 8m, phân nhiều cành, phị nước, cành có 3 cạnh lồi, lá kèm biến thành gai.
  • Lá ít và nhỏ, cuống rất ngắn, mọng nước, hình trứng ngược, gân lá không rõ, mọc từ cạnh mép của cành.
  • Hoa mọc thành tán, cuống ngắn từ những chỗ hõm của mép cành. Mỗi cụm hoa gồm 3 tổng bao, hình cầu dẹt, đường kính 1cm, màu vàng, những hoa ở cạnh có cuống ngắn, những hoa ở giữa không có cuống, vòi nhụy tách rời, đầu xẻ 2.
  • Quả có đường kính chừng 1cm. Mùa hoa vào mùa xuân.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Cây xương rồng mọc hoang và được trồng ở khắp nơi trong nước ta để làm cảnh và làm hàng rào. Còn thấy ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Ai Cập, Inđônêxya.
 
Người ta dùng nhựa cây xương rồng, cành xương rồng bóc bỏ vỏ, nướng nóng. Thu hái quanh năm.
 
C. Thành phần hoá học

Thân xương rồng chứa friedelan 3α-ol C30H52­O, epi-friedelinol, friedelan 3β-ol C30H52O, α-taraxerol C30H50O và β-taraxerol (C. A, 1967, 67, 73702y).
 
Nhựa xương rồng chứa β-amyrin C30H50O, xycloartenol C30H50O, euphol g-euphorbol và α-euphorbol C31H52O (C. A, 1971, 74, 108106f).
 
Toàn thân cây chứa axit xitric, axit tactric và axít fumaric.

D. Công dụng và liều dùng

Nhựa xương rồng có chất độc, tuyêt đối không được để bắn vào mắt. Nhân dân thường dùng nhựa xương rồng làm thuốc chữa đau bụng, tẩy, tháo nước, nhưng cần pha chế với nhiều vị khác cho đỡ có tác dụng quá mạnh.
 
Dùng ngoài làm thuốc chữa đau răng, làm thuốc sát trùng, diệt sâu bọ.
 
Cây có chất độc, dùng phải cẩn thận. Không có kinh nghiệm thì tuyệt đối không nên dùng.
 
Đơn thuốc có xương rồng dùng trong nhân dân:

Thuốc chữa đau nhức răng: Hái cành xương rồng, cạo bỏ gai, đem nướng cho nóng mềm, giã nát, nhặt bỏ xơ, thêm ít muối vào. Dùng ngậm khi đau răng, lấy một miếng thuốc trên, đặt vào nơi răng đau, ngâm chặt lại, nước dãi chảy ra thì nhổ đi. Ngậm chừng 3 - 4 lần trong ngày. Sau đó, súc miệng sạch. Chú ý tránh nuốt nước, có thể gây đi ỉa.
 
Thuốc chữa báng (kinh nghiệm của cụ Khuê, Đỗ Tất Lợi sưu tầm, 1939): Bồ hóng bếp 3 phần, bánh men rượu 1/2 bánh, nhựa xương rồng vừa đủ. Lọc bồ hóng qua vải cho nhỏ mịn, giã với men rượu, nhỏ nhựa xương rồng vào cho vừa đủ làm thành bột nhão có thể viên được. Tất cả làm thành chừng 20 viên, mỗi viên bằng hạt ngô hay hơn một chút.
 
Ngày uống 3 viên, cho vào miếng chuối và nuốt, uống trong 3 ngày, hễ thấy đi ngoài trắng như nước vo gạo là khỏi. Sau đó uống tiếp luôn 2 - 3 ngày nữa, mỗi ngày hai viên cho khỏi hẳn. Kiêng thịt mỡ, hành sống.

Chưa có dịp kiểm tra lại. Thuốc có độc nên phải hết sức cẩn thận.
 
Theo Lĩnh Nam thái dược lục, xương rồng dùng chữa mụn to không rõ nguyên nhân (vô danh thũng độc đại sang) như sau: Hái lấy cành xương rồng, bổ dọc làm 2, hơ nóng, đang nóng, đắp mặt cắt vào chỗ sưng đau, sang độc sẽ tự tiêu.

Cần chú ý nghiên cứu.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)