Xương khô, lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao (Euphorbia tirucalli L)

Cây xương khô có nhiều tên gọi khác nhau cây có tên khoa học Euphorbia tirucalli về công dụng chữa bệnh Theo Đông Y, Toàn cây có vị cay, hơi chua, tính mát, hơi có độc, có tác dụng thúc sữa, sát trùng, khư phong, tiêu viêm, giải độc.

Oct 11, 2021 - 21:02
 0  12
Xương khô, lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao (Euphorbia tirucalli L)
Cây Xương khô - Euphorbia tirucalli
Xương khô, lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao (Euphorbia tirucalli L)
Xương khô, lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao (Euphorbia tirucalli L)

Cây xương khô còn gọi là lục ngọc thụ, quang côn thụ, thanh san hô, san hô xanh, cành giao.

Tên khoa học: Euphorbia tirucalli L. (E. viminalis Mill., E. rhipsaloides Lem.). Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.

A. Mô tả cây

Cây nhỡ, có thể cao tới 4 - 7m, thân có thể có đường kính bằng cổ tay, cành nhiều, mọc so le hay hơi vòng, màu xanh, gầy, cành con cũng gầy nhỏ, chỉ mang rất ít lá.

  • Lá nhỏ, hình mác hẹp, hơi dày, rất chóng rụng, phiến lá dài 12 - 16mm, rộng 2mm. Thoáng trông, người ta có cảm tưởng là một cây không có lá.
  • Hoa tập trung ở những chỗ phân nhánh hoặc tận cùng ở đầu cành.
  • Quả nang, hơi có lông, có 3 mảnh vỏ.
  • Hạt hình trái xoan, nhẵn.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Nguồn gốc ở đảo Mangat (châu Phi). Phát hiện thấy ở Việt Nam từ năm 1970. Hiện nay, được trồng khắp nơi ở Việt Nam làm cảnh và làm hàng rào vì người ta cho rằng ai vô ý để nhựa cây này bắn vào mắt có thể bị mù. Người ta hái cành tươi ngâm rượu chữa đau răng. Mùa hái có thể quanh năm.
 
C. Thành phần hoá học

Kopaczewski (1947, Bull. Soc. Biol. France, 29, 924 - 926) đã nghiên cứu tính chất lý hoá, thành phần hoá học và độc tính của nhựa cây xương khô.
 
Nhựa này kích thích rất mạnh các niêm mạc, độc đối với cá và chuột. Nhựa cây này phơi nắng và nhào với nước sẽ cho một thứ guta-pecka.
 
Trong xương khô có tirucallol (còn gọi là kanziol), độ chảy 133 – 134.5oC, αD20+4.5o (trong benzen).

Chú thích: Ngoài công dụng làm thuốc, gần đây xương khô được xem như một cây cho dầu mỏ (xem cây Tục tùy tử).


 
D. Công dụng và liều dùng

Tại Việt Nam, thường người ta chỉ trồng làm cảnh và làm hàng rào vì có nhựa độc.
 
Một số người dùng chế thuốc ngâm chữa răng đau như sau: Hái lấy chừng 50 cành xương khô, rửa sạch, ngâm ngay vào trong 100ml cồn 90°. Mỗi lần dùng 1 thìa cà phê (15ml) cho vào cốc nước, ngậm một lát, sau đó nhổ đi, ngày ngậm 3 - 4 lần.
 
Tại Ấn Độ, Philipin và Malaixia, người ta dùng cây này để duốc cá (xem thêm cây Duốc cá).
 
Tại Inđônêxya và Malaixia, người ta dừng nhựa cây này để chữa một số bệnh ngoài da.
 
Có thể nghiên cứu làm nguồn chế guta pecka để làm áo đi mưa.
 
Mới đây, người ta đang nghiên cứu trồng cây xương khô làm nguyên liệu để khai thác dầu hỏa.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)