Nhục đậu khấu, nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade (Myristica fragrans Houtt)

Nhục đậu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hóa, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét.

Nov 15, 2021 - 10:44
 0  16
Nhục đậu khấu, nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade (Myristica fragrans Houtt)
Nhục đậu khấu còn gọi là ngọc khấu là một loài thực vật có hoa trong họ Nhục đậu khấu. Loài này được Houtt, được mô tả khoa học đầu tiên năm 1774. Gồm hơn 150 loài, phân bố ở Châu Á và phía tây Thái Bình Dương. Các loài thương mại quan trọng nhất là Myristica fragrans, từ đó làm ra gia vị mace. Tên khoa học: Myristica fragrans
Nhục đậu khấu, nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade (Myristica fragrans Houtt)

Nhục đậu khấu còn gọi là nhục quả, ngọc quả, muscade, noix de muscade.

Tên khoa họcMyristica fragrans Houtt. Thuộc họ Nhục đậu khấu Myristicaceae.

Cây nhục đậu khấu cho ta các vị thuốc sau đây:

1. Nhục đậu khấu (Semen Myristicae) là nhân phơi hay sấy khô của cây nhục đậu khấu.
 
2. Ngọc quả hoa còn gọi là nhục đậu khấu y (Arillus Myristicae hay Macis) là áo của hạt nhục đậu khấu phơi hay sấy khô.
 
A. Mô tả cây

Nhục đậu khấu là một cây to, cao 8 - 10m. Toàn thân nhẵn. Lá mọc so le, xanh tươi quanh năm, dai, phiến lá hình mác rộng, dài 5 - 15cm, rộng 3 - 7cm, mép nguyên, cuống lá dài 7 - 12mm. Hoa khác gốc mọc thành xim ở kẽ lá, có dáng tán. Màu hoa vàng trắng. Quả hạch, hình cầu hay quả lê, màu vàng, đường kính 5 - 8cm, khi chín nở theo chiều dọc thành 2 mảnh, trong có một hạt có vỏ dày cứng, bao bọc bởi một áo hạt bị rách, màu hồng.

B. Phân bổ, thu hái và chế biến

Cây nhục đậu khấu được trồng ở miền Nam Việt Nam và Campuchia. Còn mọc ở Inđônêxia, Malaixia, tây Ấn Độ, đã di thực được vào tỉnh Quảng Đông, miền nam Trung Quốc, giáp giới miền Bắc Việt Nam ta.
 
Trồng được 7 năm thì bắt đầu thu hoạch. Mỗi năm có thể thu hoạch 2 lần, một lần vào các tháng 11 - 12 và một lần vào các tháng 4 - 6. Khi đã bắt đầu thu hoạch thì có thể thu hoạch luôn trong vòng 60 - 75 năm. Mức thu hoạch cao nhất vào năm thứ 25. Từ năm thứ 10 đến năm thứ 25, hằng năm mỗi cây cho từ 1,500 đến 2,000 quả, nghĩa là chừng 8 - 10kg. Sau khi hái quả, loại bỏ vỏ quà. Sau đó lấy riêng áo hạt, ngâm muối rồi phơi hay sấy khô. Hạch đem sấy lửa nhẹ (60oC) cho đến khi lắc lên thấy kêu lóc cóc (thường việc sấy này kéo dài tới 2 tháng) thì đem đập lấy nhân, phân loại to nhỏ rồi ngâm nước vôi, sau đó phơi hay sấy lại. Việc ngâm nước vôi này có mục đích để tránh bị sâu bọ, mối mọt. Người ta phân loại nhục đậu khấu căn cứ vào to nhỏ, ví dụ 65, 80, 110 cho một bảng Anh (đơn vị trọng lượng). Càng ít nhân mà đã nặng bằng 1 bảng Anh là càng tốt.
 
C. Thành phần hóa học

Nhục đậu khấu có chứa tinh bột, chất protít, chừng 40% chất béo đặc gọi là bơ nhục đậu khấu (Beurre de muscade), 8 - 15% tinh dầu và 3 - 4% chất nhựa.
 
Tinh dầu nhục đậu khấu là một chất lỏng không màu hay hơi vàng nhạt, mùi thơm, vị nóng, gồm một hỗn hợp các chất pinen và camphen quay phải (80%), dipenten (8%), cồn tecpenic (linalol, bocneol, tecpineol và geraniol) 6%, một ít eugenol và safrol, chất myristixin (4%),…
 
Myristixin có công thức C10H12O3 có tinh thể màu vàng, có độc.

Myristixin

Tỷ trọng 0.870 – 0.925, năng suất quay cực phải αD+16o đến +30o. Tan trong một thể tích cồn 90o, độ sôi 115oC đến 300oC. Nhục đậu khấu phải cho 25% cao ête, nhiều nhất 5% tro toàn bộ và nhiều nhất 0.5% tro không tan trong HCl.
 
Nhục đậu khấu y hay ngọc quả hoa chứa 8% tinh dầu, chất nhựa và chất pectin. Tinh dầu không màu hay đỏ nhạt, rất lỏng, quay phải, mùi vị nồng giống như nhục đậu khấu, cất theo ở nhiệt độ 155oC đến 183oC.
 
Bơ nhục đậu khấu (beurre de muscade) chứa chừng 70 - 75% myristin. Ta có thể tách myristin ra dễ dàng do myristin ít tan trong cồn lạnh. Ngoài ra, còn 10 - 20% olein, 1% butyrin, axit loric, 1 - 2% axit panmitic, 7 - 8% stearin và 1% axit linoleic. Trong bơ nhục đậu khấu còn có 2 - 3% tinh dầu làm cho bơ có mùi thơm, nhựa, chất màu, chừng 18.7% chất không xà phòng hóa được.
 
Myristin xà phòng hóa sẽ cho axit myristic và glyxerin. Axit myristic là một chất béo trắng cứng, không mùi, màu trắng, có thể có tinh thể.
 
D. Tác dụng dược lý

Nhục đậu khấu và ngọc quả hoa đều là những vị thuốc thơm, có tác dụng kích thích. Được dùng trong cả Đông y và Tây y. Nhưng dùng với liều cao thì có thể gây độc: Dùng nguyên cả một hạt đã có hiện tượng độc. Sau một thời gian kích thích ngắn, có hiện tượng mệt mỏi trì độn và ngủ gà. Purkinje đã cảm thấy một hiện tượng tê mê sau khi dùng nhục đâu khấu. Theo Leclerc, đã có nhiều trường hợp ngộ độc xảy ra ở Anh và Mỹ, trong đó có một trường hợp chết người với hiện tượng giãn đồng tử như khi bị ngộ độc do benladôn.
 
Dùng ít thì xúc tiến sự bài tiết dịch vị, giúp sự tiêu hóa, kích thích nhu động ruột, gây ăn ngon nhưng uống nhiểu quá sẽ làm say tê, có khi tiểu tiện ra huyết rồi chết.
 
Đông y ghi tính chất của nhục đậu khấu là vị cay, tính ôn, hơi độc, vào 3 kinh tỳ vị và đại trường có nãng lực ôn tỳ, sáp tràng, chì nôn, chỉ tà lỵ, tiêu thực, chữa lạnh bụng, đau bụng, đầy chướng. Phàm nhiệt tả, nhiệt lỵ và bệnh mới phát chớ có dùng.
 
D. Công dụng và liều dùng

Nhục đậu khấu là một vị thuốc dùng để kích thích tiêu hóa, làm thuốc kích thích chung trong các trường hợp kém ăn, sốt rét.
 
Dùng dưới dạng bột hay dạng thuốc viên. Ngày uống 0.25 đến 0.50g. Có khi có thể dùng 2 đến 4g, Nhưng dùng liều quá cao có thể gây độc.
 
Bơ đậu khấu dùng xoa bóp ngoài chữa tê thấp, đau người.
 
Ngọc quả hoa dùng như nhục đậu khấu.
 
Đơn thuốc có nhạc đậu khấu:

1. Chữa bệnh kém ăn, ăn uống không tiêu: Nhục đậu khấu 0.5g, nhục quế 0.5g, đinh hương 0.2g. Tất cả tán thành bột, trộn với đường sữa 1g. Chia làm 3 gói, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 gói.
 
2. Thuốc giúp sự tiêu hóa, kém ăn, nôn mửa, đau bụng: Quế tán thành bột 100g, nhục đậu khấu tán thành bột 80g, đinh hương tán bột 40g, sa nhân 30g tán bột, canxi cacbonat bột 250g, đường 500g tán nhỏ. Tất cả trộn đều. Ngày dùng 0.5g đến 4g bột này.
 
Để thêm tác dụng, có thể pha vào bột trên một ít bột thuốc phiện theo tỷ lệ như sau: Bột chế như trên 975g, bột thuốc phiện 25g. Tất cả trộn đều. Dùng liều lượng như trên trong các trường hợp đau bụng, đi lỵ. Dùng cẩn thận vì có thuốc phiện.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)