Cây Ớt, ớt tàu, ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu (Capsicum annuum L)

Quả ớt dùng trị ỉa chảy hắc loạn, tích trệ, sốt rét. Lá ớt dùng trị sốt, trúng phong bất tỉnh và phù thũng. Rễ hoạt huyết tán thũng. Lá ớt có vị đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt giải độc, sát trùng, lợi tiểu.

Nov 8, 2021 - 20:30
 0  25
Cây Ớt, ớt tàu, ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu (Capsicum annuum L)
Capsicum annuum là một loài ớt đã thuần hóa thuộc chi Capsicum, họ cà có nguồn gốc từ miền Nam Bắc Mỹ và miền bắc Nam Mỹ
Cây Ớt, ớt tàu, ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu (Capsicum annuum L)

Cây Ớt còn gọi là ớt tàu, ớt chỉ thiên, ớt chỉ địa, lạt tiêu.

Tên khoa học: Capsicum annuum L. Thuộc họ Cà Solanaceae.

Ớt (Fructus Capsici) là quả chín phơi khô của cây ớt Capsicum annuum L. và những cây ớt khác. Ta còn dùng cả lá tươi (Folium Capsici).
 
Tên khoa học do chữ capsa là túi, ý nói quả ớt giống cái túi, annuum có nghĩa là mọc hàng năm.
 
A. Mô tả cây

Cây loại cỏ mọc hàng năm tại những nước ôn đới, sống lâu năm và thân phía dưới hoá gỗ ở những nước nhiệt đới. Cây có rất nhiều cành, nhẵn. Lá mọc so le, hình thuôn dài, đầu nhọn, phía cuống cũng thuôn hẹp, có cuống, phiến lá dài 2 - 4cm, rộng 1.5 – 2.0cm. Hoa mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả mọc rủ xuống hay quay lên trời (chỉ thiên), hình dáng thay đổi, khi thì tròn, khi thì dài, đầu nhọn, màu vàng hay đỏ, Có loại rất cay, có loại ít cay, tuỳ theo nhiều điều kiện.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Được trồng ở khắp nơi tại Việt Nam. Có những cây mọc hoang, nhưng có lẽ đó cũng là do gần đấy có nhà trước trồng, sau bỏ đi nơi khác, còn sót giống lại.
 
Tuy nhiên, việc trồng ớt ở nước ta chưa phát triển lắm. Tại nhiều nước như Nhật Bản, Inđônêxya, Ấn Độ, nhất là Hungari, người ta trồng hàng nghìn hecta, mỗi năm xuất cảng từ 2,500 đến 3,000 tấn ớt khô. Có những cơ quan chuyên nghiên cứu, trồng ớt, chọn giống, hướng dẫn cách thu hái, chế biến và có xí nghiệp chuyên môn chế biến ớt. Chủ yếu hái quả dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô. Lá thường dùng tươi.
 
C. Thành phần hoá học

Trong ớt có những chất chủ yếu sau đây:
 
- Capsicain C18H27NO3 là một ancaloit chừng 0.05 - 2%, phần lớn tập trung ờở biểu bì của giá noãn (placenta), khi tán bột giá noãn, nhỏ nước lên rồi soi kính sẽ thấy các tinh thể hình vuông của capsicain. Độ chảy của capsicain là 65oC, khi nhiệt độ hơi cao thì bốc hơi và kích ứng rất mạnh gây hắt hơi rất khó chịu. Cấu tạo hoá học của nó đã được xác định là axit isodexenic vanilylamit.
 
Tính chất cay này gặp kiềm khoong bị mất đi như chất cay của hồ tiêu. Nhưng nếu bị ôxy hoá bởi kali bicromat hoặc kali pecmanganat thì tính chất cay sẽ bị mất đi.
 
Trong đó, tính chất cay do gốc -CO-NH-CH-CH2- quyết định. Chất này với nồng độ 1/100,000 vẫn còn cay.
 
- Một ancaloit nữa không có vị cay, ở dạng lỏng.
 
- Chất capsaixin là hoạt chất gây đỏ nóng, trạng thái dầu lỏng, xuất hiện khi quả chín. Cấu tạo hoá học chưa xác định được. Tỷ lệ từ 0.01% ở những ớt thường, đến 0.1% ở những ớt paprika.
 
- Vitamin C, tỷ lệ khoảng chừng 0.8 – 1.0% trong ớt của ta (Việt Nam, Bộ môn Dược liệu, 1957). Có những tác giả nghiên cứu ớt ở châu Phi, Hungari, thấy lượng vitamin C lên tới 1.17%, 2.66%, 4.98%.

Cấu tạo hoạt chất trong ớt
 
Ngoài ra, trong ớt còn có chất khác như capsanthin, là chất màu có tinh thể thuộc loại caroten, vitamin B1 B2, axit xitric, axit malic,...
 
D. Tác dụng dược lý

Gây xót da và niêm mạc: Gây đỏ mà không gây phồng da, làm ta có cảm giác nóng ở môi và dạ dày.
 
Tay sờ vào ớt cần tránh dụi vào mắt. Bột ớt gây hắt hơi rất khó chịu, khi đốt ớt, khói ớt gây hắt hơi rất mạnh.
 
E. Công dụng và liều dùng

Ngoài công dụng làm gia vị, ớt có thể là một vị thuốc làm giúp sự tiêu hoá, làm ăn ngon chóng tiêu.
 
Dùng ngoài, ớt là một vị thuốc gây đỏ, kích thích tại chỗ, những trường hợp đau do phong thấp, đau lung, đau khớp.
 
Ngày dùng 0.05g chia làm nhiều lần uống. Dùng ngoài không có liều lượng.
 
Đơn thuốc có ớt:

Chữa rắn rết cắn: Giã nhỏ lá ớt, đắp vào nơi bị thương. Hết đau nhức thì bỏ đi. Ngày làm một đến hai lần cho đến khi hết đau. Thường 15 - 30 phút hết đau, 2 - 3 giờ là khỏi hẳn.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)