Huyết đằng, Đại huyết đằng, Hồng đằng (Tên khoa học Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils. (Holboellia cuneata Oliv.)
Nhân biết đúng cây thuốc Cây Hồng Đằng, Kê Huyết Đằng Còn gọi là thuyết đằng, đại hoạt đằng, hoạt huyết đằng, kê huyết đằng, đại huyết đằng, dây máu người. có Tên khoa học Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils. (Holboellia cuneata Oliv.).
Tên tiếng Việt: Huyết đằng, Đại huyết đằng, Hồng đằng
Tên khoa học: Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wiis.
Họ: Sargentodoxaceae
Công dụng: Chữa đau bụng, đau bụng kinh, phong thấp, đầu váng (Thân). Vỏ làm thuốc bổ huyết, điều kinh, huyết hư.
A. Mô tả cây
- Cây huyết đằng (Sargentodoxa cuneata) là một loại dây leo, thân có thể dài tới 10 mét, vỏ ngoài màu hơi nâu. Lá mọc so le, kép, gồm 3 lá chét, cuống lá dài 4,5-10cm, lá chét giữa có cuống ngắn, lá chét hai bên gần như không cuống. Phiến lá chét giữa hình trứng, lá chét 2 bên hơi hình thận, dài 7-1 cm, rộng 3,5-6,5cm. Mặt trên màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt. Hoa đơn tính, khác gốc, mọc thành chùm ở kẽ lá, cụm hoa dài tới 14cm, mọc thõng xuống. Hoa đực màu vàng xanh, 6 lá đài, 6 cánh tràng thoái hóa thành hình sợi, 6 nhị. Hoa cái gần như hoa đực, nhiều lá noãn, bầu thượng. Quả mọng hình trứng dài 8-10mm. Khi chín có màu lam đen. Mùa hoa vào các tháng 3-4, mùa quả vào các tháng 7-8.
- Cây kê huyết đằng (Millettia nitida Benth.) cũng là một loại dây leo, lá mọc so le, kép, thường gồm 5 lá chét, cuống lá dài chừng 3- 5mm, phiến lá chét dài 4-9cm, rộng 2-4cm, lá chét giữa dài và to hơn các lá chét bên. Gân chính và gân phụ đểu nổi rõ ở cả 2 mặt. Cụm hoa mọc thành chùm ở đầu cành hay ở kẽ các lá đầu cành, cụm hoa dài chừng 14cm. Trục cụm hoa có lông mịn, hoa màu tím, đài hình chuông, tràng hoa hình cánh bướm. Quả giáp dài 715cm, rộng l,5-2cm, đẩu quả hẹp lại và thường thành hình mỏ chim, trên mặt có phủ lông mịn màu vàng nhạt. Hạt 3-5, đường kính ước 12mm, màu đen nâu. Mùa hoa vào các tháng 9 đến tháng 1 năm sau.
- Cây kê huyết đằng (Millettia dielsiana Harms) cũng gần như cây trên, hoa màu hồng.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
- Các loài kê huyết đằng rất đa dạng, phân bố ở nhiều vùng khác nhau:
– Huyết đằng lông phân bố chủ yếu ở các vùng rừng núi phía nam như Tây Nguyên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định…
– Kê huyết đằng: ở các vùng rừng núi phía bắc, nhiều nhất ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hòa Bình
– Huyết đằng quả to: mới phát hiện ở rừng Bến En (Như Xuân – Thanh Hóa)
– Huyết rồng: ở Đông Nam Bộ, Đồng Nai, Lâm Đồng, Sông Bé, Bà Rịa – Vũng Tàu…
– Hồng đằng: Ở Lào Cai, Yên Bái, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hòa Bình - Tất cả các loài trên thường mọc trong các quần hệ rừng kín thường xanh trên núi đất, núi đá vôi; đôi khi gặp ở kiểu rừng thưa nửa rụng lá hơi khô. Chúng có thể sống được trên nhiều loại đất: feralit đỏ hay vàng trên núi, granit, bazan, đất pha cát dọc theo các bờ sông suối. Độ cao phân bổ thường không vượt quá 1600m. Cây ra hoa quả nhiều hàng năm hoặc cách năm. Hoa quả chỉ thấy trên những cây lớn không bị chặt phá thường xuyên. Tái sinh tự nhiên chủ yếu bằng hạt và cây chồi gốc sau khi bị chặt. Nguồn dược liệu “kê huyết đằng” ở Việt Nam tương đối phong phú. Tuy nhiên, những loại cây dây leo gỗ này thường là đối tượng bị loại bỏ trong quá trình tu bổ rừng. Ở một số vườn quốc gia của Việt Nam, đều có một số loài kê huyết đằng nêu trên. Ở Vườn quốc gia Tam Đảo, thuộc địa phận xã Kháng Nhật, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang có những cá thể thuộc loài M. reticulata Benth khổng lồ, leo lên các cây gỗ cao tới 20m.
C. Bộ phận dùng
- Thân gỗ leo thu hái quanh năm, tốt nhất vào tháng 8 – 10, chặt về, cắt bỏ cành lá, để vài ngày cho nhựa se lại, sau mới chặt khúc, phơi khô. Dược liệu khi tươi cắt ngang có nhựa đỏ như máu tiết ra, lúc khô ở mặt cắt có nhiều vòng đen do nhựa quánh lại.
- Đối với loài hồng đằng có thể chế biến bằng cách rửa sạch, ủ mềm, thái phiến dày 3 – 5mm. Trong trường hợp thân khô cứng, phải ngâm 12 giờ, ủ 1-2 giờ (có khi còn đồ) cho mềm rồi mới thái phiến, phơi khô.
D. Thành phần hóa học
- Trong Kê huyết đằng có Milletol ((Trung Dược Học).
- Trong rễ, vỏ và hạt có Glucozit, Tannin, chất nhựa (Dược Liệu Việt Nam).
- Friedelan-3-Alpha-Ol, Daucosterol, Beta Sitosterol, 7-Oxo-Beta-Sitosterol, Formononetin, Ononin,Prunetin, Afrormosin, Daidzein, 3,7-Dihydroxy-6-methoxy-dihydroflavonol, Epicatechin, Isoliquiritigenin, 2’, 4’, 3, 4-tetrahydroxy chalcone, Licochalcone, Medicagol, Protocatechuic acid, 9-Methoxycoumestrol, Cajanin(Lâm Thành, Trung Thảo Dược 1989, 20 (2): 53).
- Trong rễ có: Stigmast-5-ene-3 Beta-7 Alpha-Diol), 5 Alpha-Stigmastane-3 Beta, 6 Alpha-Diol (Fukuyama Y và cộng sự, Planta Med, 1988, 54 (1): 34).
E. Tác dụng dược lý
- Loài kê huyết đằng (Millettia dielsiana): Dạng chiết cồn từ cây với nồng độ 40% thí nghiệm trên chuột cống trắng, dùng qua đường dạ dày với liều 0,5ml/100g thân trong, có tác dụng ức chế viêm khớp thực nghiệm do formaldehyd tạo nên. Dạng nước sắc dùng với liều 0,01 – 0,4g/kg trên chó gây mê tiêm tĩnh mạch, không ảnh hưởng đến hô hấp và huyết áp. Trên chuột cống trắng tiêm phúc mạc, thuốc có tác dụng an thần, gây ngủ. Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng đã tiêm lân phóng xạ P32, nước sắc loài này ở nồng độ 0,25g/ml dùng liều 0,5ml cho thẳng vào dạ dày, ngày một lần trong 3 ngày liên tiếp, có tác dụng thúc đẩy sự chuyển hóa của lân ở thận và tử cung, điều đó chứng tỏ loài này có tác dụng thúc đẩy sự chuyển hóa năng lượng ở thận và tử cung. Ngoài ra còn có tác dụng tăng cường sự bài tiết nước và muối.
- Loài huyết rồng: Trên tim ếch cô lập và tại chỗ, loài này có tác dụng ức chế, trên thỏ và chó gây mê, có tác dụng hạ huyết áp, nhưng đối với tiêu bản tai thỏ cô lập và tuần hoàn chi sau ếch lại có tác dụng co mạch.
- Loài hồng đằng: Dịch chiết hồng đằng (0,5%), trên tim ếch cô lập có tác dụng ức chế, giảm sức co bóp cơ tim đồng thời làm chậm nhịp tim. Dịch chiết hồng đằng 1% trên tiêu bản giải động mạch chủ cô lập thỏ thể hiện tác dụng 2 chiều, giai đoạn đầu có tác dụng, kích thích tiếp theo là ức chế. Thí nghiệm trên mèo, dịch chiết hồng đằng tiêm tĩnh mạch với liều 0,1g/kg có tác dụng hạ huyết áp, tác dụng này bị atropin đối kháng. Trên cơ trơn ruột cô lập chuột nhắt trắng, dịch chiết 1% và 5% có tác dụng ức chế co bóp. Ngoài ra, hồng đằng còn có tác dụng chống oxy hóa, đối kháng với gốc tự do; dịch chiết hồng đằng thí nghiệm trên chuột nhắt trắng tiêm phúc mạc với liều 2,0g/kg có tác dụng nâng cao khả năng chịu đựng trạng thái thiếu oxy ở điều kiện áp lực bình thường.
F. Tính vị, công năng
Kê huyết đằng có vị đắng, tính bình, có tác dụng bổ huyết, chỉ thống, thanh nhiệt, giải độc, thư cân
G. Công dụng
- Huyết đằng còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân. Nó được dùng từ lâu đời. Trong Tống đề kinh bản thảo, vị này được ghi là huyết đằng, trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân nó được ghi là hồng đằng, trong Danh thực đồ khảo lại được ghi là đại huyết đằng.
- Đông y coi vị huyết đằng có vị đắng, tính bình có khả nàng khử phong, thông kinh lạc, đau bụng giun. Ngày dùng 12g đến 40g dưới dạng thuốc sắc.
- Kê huyết đằng có vị đắng tính ôn, có tác dụng bổ huyết, hành huyết, thông kinh lạc, khỏe gân cốt, dùng chữa đau lưng đau mình, kinh nguyệt không đều. Ngày dùng 6 đến 12g dưới hình thức thuốc sắc hay ngâm rượu.
Đơn thuốc có vị kê huyết đằng:
A – Dùng ở Việt Nam
1. Chữa thiếu máu hư lao: Kê huyết đằng 200-300g, tán nhỏ, ngâm với 1 lít rượu trong 7-10 ngày. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 25ml. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như thục địa, đan sâm, hà thủ ô (liều lượng bằng nhau). Mỗi ngày uống 2-4g, pha với ít rượu.
2. Chữa tê thấp, nhức mỏi gân xương: Kê huyết đằng 12g, cây mua núi 12g, rễ gối hạc 12g, rễ phòng kỷ 10g, vỏ thân ngũ gia bì chân chim 10g, dây đau xương 10g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm rượu uống. Ngày 50ml chia làm 2 lần.
Hoặc kê huyết đằng, độc hoạt, dây đau xương, thiên niên kiện, phòng kỷ, rễ bưởi bung, chân chim, gai tầm xọng, cô xước, xấu hổ, quế chi, núc nác, mỗi vị 4-6g, sắc hoặc nấu cao thêm đường uống.
3. Chữa kinh nguyệt không đều: Kê huyết đằng 10g, tô mộc 5g, nghệ vàng 4g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, sắc uống làm một lần trong ngày. Phụ nữ có thai không được dùng.
Hoặc kê huyết đằng 16g, ích mẫu 16g, sinh địa 12g, nghệ 8g, xuyên khung 8g, đào nhân 8g. Sắc uống trong ngày
B – Dùng ở Trung Quốc
Chữa kinh nguyệt không đều, đau kinh, bế kinh: Kê huyết đằng 1000g, đan sâm 30g, huyền hồ 20g, đương quy 20g, sa nhân 10g, nhục quế 10g, câu kỷ 30g, hoàng kỳ 500g, liên nhục 500g, thiên ma 20g, khương hoạt 20g, thiên niên kiện 150g, uy linh tiên 60g, mộc hương 20g, đỗ trọng 30g, ngưu tất 30g, đại táo 500g, đường trắng 500g. Đem kê huyết đằng ngâm trong nước nóng khuấy đều cho nhựa mủ tan vào nước, vớt bã lấy nước, cho thêm nước nóng vào bã ngâm lần thứ 2. Gộp các nước ngâm lại. Các dược liệu còn lại sắc làm 2 lần rồi gộp lại, trộn đều với nước ngâm kê huyết đằng. Dùng lửa nhỏ cô đặc, khuấy đều để nhựa không bám vào đáy nồi, đến khi xuất hiện bọt nổi trên bề mặt thì cho đường vào hòa tan. Đổ vào khuôn chờ cao đông cứng lại, cắt thành miếng 30g. Ngày dùng 1 miếng.
Chữa cam tích trẻ em, giun đũa, giun kim: Hồng đằng 15g, hồng thạch nhĩ 15g, nghiền thành bột rồi trộn với đường trắng uống.
Chữa viêm ruột thừa giai đoạn đầu, chưa mưng mủ: Hồng đằng 30g, tử hoa địa đinh 15g, liên kiều 15g, kim ngân hoa 15g, một dược 10g, nhũ hương 10g, đơn bì 10g, diên hồ 10g, cam thảo 5g. Sắc nước uống.
Theo Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh
HUYẾT ĐẰNG
Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils. 1913
Holboellia cuneata Oliv. 1889
Họ: Huyết đằng Sargentodoxaceae
Bộ: Mao lương Ranunculales
Mô tả:
Dây leo gỗ, dài 15 - 20 m, có nhựa đỏ như máu. Vảy chồi và cành non không lông, lá kép gồm 3 lá chét, nhẵn. Lá chét ở giữa hình bầu dục, hai lá chét bên hình trứng hay bầu dục không đối xứng, dài 7 - 12cm, rộng 3,5 - 7cm. Hoa đơn tính, khác gốc. Cụm hoa đực là chùm thõng. Hoa đực có 6 lá đài màu vàng lục, dài 1 - 1,2cm, có 6 cánh hoa hẹp như sợi và 6 nhị. Hoa cái rất nhiều lá noãn rời. Quả kép gồm 6 - 20 quả mọng, có cuống, đường kính 8 - 10mm, màu lam đen. Hạt to 1,5mm.
Sinh học:
Mùa hoa tháng 3 - 4, mùa quả chín tháng 7 - 8.
Nơi sống và sinh thái:
Mọc rất rải rác ở ngoài cửa rừng và ven suối thuộc vùng rừng mưa nhiệt đới thường xanh mưa mùa ẩm, ở độ cao thường không quá 600 - 700 m.
Phân bố:
Việt Nam: Bắc Thái (Đại Từ), Vĩnh phúc (Tam Đảo), Hòa Bình (Lương Sơn: Lâm Sơn).
Thế giới: Trung Quốc.
Giá trị:
Nguồn gen qúy, hiếm và độc đáo. Đại diện duy nhất của chi, Sargentodoxa và của họ Sargentodoxaceae. Vỏ thân dùng làm thuốc bổ huyết và điều kinh.
Tình trạng:
Loài hiếm. Mức độ đe dọa: Bậc R.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Là đối tượng bảo vệ của khu rừng vườn quốc gia Tam Đảo.
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam - trang 241.
Cây Hồng Đằng (Kê Huyết Đằng) – Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Còn gọi là thuyết đằng, đại hoạt đằng, hoạt huyết đằng, kê huyết đằng, đại huyết đằng, dây máu người.
Tên khoa học Sargentodoxa cuneata (Oliv.) Rehd. et Wils. (Holboellia cuneata Oliv.).
Thuộc họ Huyết đằng Sargentodoxceae.
Hồng đằng hay huyết đằng (Caulis Sargen- todoxae) là thân phơi hay sấy khô của cây huyết dang Sargentodoxa cuneata (Oliv) Rehd. et Wils.
Ngoài ra, người ta còn dùng kê huyết đằng (Caulis Mucunae) là thân của cây kê huyết đằng (Mucuna birwoodiana Tutcher.) hoặc một số loài Milletia nhu Milletia nitida Benth., Miletia diesiana Harms đều thuộc họ Cánh bướm (Fabaceae).
Tên huyết đằng vì thân cây cắt ra có chất nhựa màu đỏ như máu (huyết là máu, đằng là dây) kê huyết đằng là dây máu gà.
Mô tả cây
Cây huyết đằng (Sargentodoxa cuneata) là một loại dây leo, thân có thể dài tới 10 mét, vỏ ngoài mài hơi nàu. Lá mọc so le, kép, gồm 3 lá chét, cuống lá dài 4,5-10cm, lá chét giữa có cuống ngắn, lá chét hai bên gần như không cuống. Phiến lá chét giữa hình trứng, lá chét 2 bên hơi hình thận, dài 7-11cm, rộng 3,5-6,5cm. Mặt trên màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt. Hoa đơn tính, khác gốc, mọc thành chùm ở kẽ lá, cụm hoa dài tới 14cm, mọc thông xuống. Hoa đực màu vàng xanh, 6 lá đài, 6 cánh tràng thoái hóa thành hình sợi, 6 nhị. Hoa cái gần như hoa đực, nhiều lá noãn, bầu thượng. Quả mọng hình trứng dài 8-10mm. Khi chín có màu lam đen. Mùa hoa vào các tháng 3-4, mùa quả vào các tháng 7-8.
Cây kê huyết đắng (Milletia nitida Benth.) cũng là một loại dây leo, lá mọc so le, kép, thường gồm 5 lá chét, cuống lá dài chừng 3- 5mm, phiến lá chét dài 4-9cm, rộng 2-4cm, lá chét giữa dài và to hơn các lá chét bên. Gân chính và gân phụ đều nổi rõ ở cả 2 mặt. Cụm hoa thành chùm mọc ở đầu cành hay ở kẽ các lá đầu cành, cụm hoa dài chừng 14cm. Trục cụm hoa có lông mịn, hoa màu tím, đài hình chuông, tràng hoa hình cánh bướm. Quả giáp dài 7-15cm, rộng 1,5-2cm, đầu quả hẹp lại và thường thành hình mỏ chim, trên mặt có phủ lồng mịn màu vàng nhạt. Hạt 3-5, đường kính ước 12mm, màu đen nâu. Mùa hoa vào các tháng 9 đến tháng 1 năm sau.
Cây kế huyết đằng (Milletia dielsiana Harms) cũng gần như cây trên, hoa màu hồng.
Phân bố, thu hái và chế biến
Những cây cho vị huyết đảng và kê huyết đằng ở Việt Nam hiện chưa được xác định chắc chắn thuộc vào mấy loài. Nhân dân chỉ mới căn cứ vào khi chặt thân cây có những đám nhựa màu đỏ giống như máu mà lấy về dùng.
Những cây này hiện được khai thác nhiều nhất tại các tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Cao Bằng, Lạng Sơn, còn thấy ở nhiều tỉnh miền núi khắc nhưng ít được khai thác.
Tại Trung Quốc, những cây cho huyết đằng và kê huyết đăng thường mọc ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến, Vân Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam, Hồ Bắc v.v…. Tại Trung Quốc cũng dùng lẫn lộn. Đối với tên vị hồng đằng hay huyết đằng thường chi là thân cây Sargentodoxa cuneata, nhưng với tên kê huyết đằng thì người ta dùng nhiều loài Milletia khác nhau.
Huyết đằng và kê huyết đằng có thể thu hái quanh năm, nhưng tốt nhất vào các tháng 9-10, chặt toàn cây về, phơi khô, cắt bỏ lá và cành, có nơi cắt thành từng đoạn ngắn hay miếng mỏng rồi mới phơi hay sấy khô.
Thành phần hóa học
Chưa có tài liệu nghiên cứu. Chúng tôi thấy có rất nhiều tanin (Đỗ Tất Lợi).
Công dụng và liều dùng
Huyết đằng còn là một vị thuốc dùng trong phạm vi nhân dân. Nó được dùng từ lâu đời. Trong Tổng đồ kinh bản thảo, vị này được ghi là huyết đằng, trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trần nó được ghi là hồng đằng, trong Danh thực đồ khảo lại được ghi là đại huyết đằng.
Đông y coi vị huyết đằng có vị đắng, tính bình có khả năng khử phong, thông kinh lạc, đau bụng giun. Ngày dùng 12g đến 40g dưới dạng thuốc sắc.
Kê huyết đẳng có vị đắng tính ôn, có tác dụng bổ huyết, hành huyết, thông kinh lạc, khỏe gần cốt, dùng chữa đau lưng đau mình, kinh nguyệt không đều. Ngày dùng 6 đến 12g dưới hình thức thuốc sắc hay ngâm rượu.
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |