Thạch, quỳnh chi (Gracilaria sp, Gelidium amensii Lamour)

Công dụng và tác dụng của Thạch có Vị ngọt mặn, tính lạnh; có tác dụng bổ mát, nhuận tràng, chống bốc nóng lên trên đầu, thanh nhiệt ở thượng tiêu, khỏi uất nóng ở trong cùng trạng thái giá lạnh ở chi dưới và cũng tiêu sưng.

Oct 24, 2021 - 04:16
 0  28
Thạch, quỳnh chi (Gracilaria sp, Gelidium amensii Lamour)
Thạch hoa thái - Gelidium amansii
Thạch, quỳnh chi (Gracilaria sp, Gelidium amensii Lamour)

Thạch còn gọi lá quỳnh chi.

Tên khoa học: agar, agar-agar.

Thạch (agar hay agar-agar) là một chất nhầy phơi khô chế từ một số hồng tảo như nhiều loại rau câu (Gracilaria sp.) của ta hoặc từ một loại hồng tảo gọi là Thạch hoa thái Gelidium amensii Lamour., thuộc họ Thạch hoa thái Gelidiaceae, lớp Hồng tảo Rhodophyceae.
 
A. Mô tả một số nguyên liệu chế thạch

Thạch có thể chế từ nhiều hồng tảo (Rhodophyta) khác nhau như Thạch hoa thái (Gelidium amansii Lamour., Gelidium lichenoides Harv.), Rau câu (Gracilaria sp.), Eucheuma (Eucheuma spinosum J.Ag. và Eucheuma isiforme Harv.), Gloiopeltis tenax,…

Trong các chi đó, chi Gelidium cho nhiều thạch nhất. Sau đây, chỉ giới thiệu một số thường gặp:
 
Thạch hoa thái (Gelidium amansii Lamour.) là loài được dùng chế thạch ở Trung Quốc và Nhật Bản. Qua nghiên cứu sự phân bố loại này trên thế giới, chúng tôi cho rằng có thể gặp nó ở nước ta vào một loại rau câu, nhưng chưa đủ tài liệu để xác định chắc chắn. Tản hình lá màu hồng tím, phân chia trên một mặt phẳng hình lông chim hai lần giống như san hô, cành nhỏ rộng 2 - 3cm.
 
Thạch hoa thái thường mọc ở trên mặt đá ngầm sâu chừng 3 - 10m. Thông thường, vào mùa hạ và thu, người ta dùng một loài cào đặc biệt để lôi lên bờ, rửa sạch, phơi nắng nhiều ngày để tẩy trắng và phơi khô. Chờ đến những ngày thật rét mới đem nấu thạch.
 
Rau câu của ta hiện mới tạm xác định theo tài liệu cũ là Gracilaria. Nhưng như trên đã nói, có thể một loại rau câu của ta thuộc loài Gelidium amansii (thạch hoa thái). Hiện nay, trong giới anh em công tác thuỷ sản, người ta tạm chia rau câu ở nước ta ra làm hai loại: Loại sinh trưởng ở các vùng có rạn đá ngầm ngoài biển và loại sinh trưởng ở các vịnh, của lạch có nước ngọt chảy về.
 
Trong loại sinh trưởng ở vùng đá ngầm ngoài biển, người ta lại gọi tên khác tuỳ theo hình dáng và nơi mọc như rau câu chân vịt (giống chân con vịt), còn gọi là rau câu kỳ lân, rau câu đá. Loại này thường mọc ở nước sâu 2 - 7m, trên các tảng đá san hô, tảng đá thường nơi có nước thủy triều chảy thông suốt. Rau câu loại này khi thì hình bán trụ, khi thì dẹt, khi lại nhỏ như tơ trên đầu, nhọn như kim, lại rất dài.
 
Rau câu bể này phân bố khắp ở các tỉnh có nhiều rạn đá, nhưng đáng kể nhất là từ Nam Định trở vào, nhiều nhất vùng Quỳnh Lưu (Nghệ An).
 
Loại sinh trưởng ở vịnh, cửa lạch gọi là vùng nước lợ thường gọi là rau câu đông, rau vai đen, rau câu ống. Màu sắc thay đổi từ hung hung đỏ, xanh, vàng tím, trắng. Loại này được trồng ở Trung Quốc vì sinh trưởng nhanh, sản lượng cao, chất lượng thạch cho ra cũng tốt. Loại này phân bố rộng, nhiều nhất ở vùng Xuân Hội (Nghệ An), Hoằng Hoá (Thanh Hoá), Hải Ninh (Quảng Ninh).
 
B. Phân bố, thu hái và chế biến

Theo sự phân bố đã nghiên cứu của thạch hoa thái thì loài này mọc ở ven biển Nhật Bản, Triều Tiên, Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Bình Dương, Đại Tây Dương. Trên cơ sở đó, mặc dù chưa có đủ tài liệu và trước đây chưa thấy xác định ở Việt Nam có loại Gelidum, nhưng sơ bộ chúng tôi thấy có thể một loại rau câu của chúng ta thuộc loại này.
 
Những thứ rau câu của ta tuỳ theo loại, có thứ ưa bám trên đá san hô, có thứ ưa những chỗ rạn nứt, nhưng nói chung hay gặp tại những tỉnh miền duyên hải nước ta có nhiều núi, nhiều cù lao như Thanh Hoá, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ninh. Tuỳ theo từng địa phương, loại này nhiều hơn loại khác, ví dụ như rau câu rễ tre có nhiều ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Thanh Hoá, loại rau câu chỉ nhiều ở những vùng nửa mặn nửa ngọt tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hoá, Nam Hà và loại rau câu cạo có nhiều ở Thanh Hoá.
 
Vào tháng các tháng 3 - 10 dương lịch, người ta thu hoạch rau câu. Thường người ta chờ thuỷ triều xuống rồi dùng tay hớt hay dùng cào sắt để cào, vùng nước sâu thì lặn xuống mà cào lấy.
 
Sau khi hái về, người ta đập bò vỏ ốc, vỏ sò và đất cát, rửa nước thường cho sạch rồi phơi nắng, phơi đêm nhiều ngày cho thật trắng, cất đi hoặc làm rau ăn hoặc chế thạch.
 
Muốn chế thạch phải qua những bước sau (cần chờ trời lạnh):
 
Đem nấu rau câu đã đập hết đất cát và vỏ sò, phơi trắng với nước (cứ 1kg rau câu, dùng 55 - 60kg nước) ở nhiệt độ 80 – 100oC, chất thạch tan vào nước, lọc. Khi nhiệt độ thấp hơn 35 – 50oC thạch sẽ đông lại. Cắt thành từng thỏi hoặc ép qua một bàn ép có lỗ làm thạch có hình sợi. Rồi để từng thỏi thạch hay sợi thạch trên các manh chiếu cói. Rồi cho vào nơi lạnh (nếu nhiệt độ không lạnh). Thường ở Trung Quốc và Nhật Bản, ban đêm trời lạnh, thạch đông rắn lại, ngày hôm sau trời nắng ấm, nước lại chảy lỏng, các chất tan trong nước cũng ra theo và chảy qua các khe chiếu. Chờ ít ngày thạch sẽ thành từng thỏi hoặc từng sợi, phân loại đen trắng mà đóng gói.
 
Một số nơi chế thạch theo phương pháp hơi khác: Đáng lẽ dùng nước lã, người ta dùng nước phèn chua (100kg rau câu, thêm 4kg phèn chua mà nấu với nước) hoặc dùng nước có axit axetic, axit sunfuric hay clohydric (cứ 100kg rau câu dùng 280ml axit sunfuric). Muốn tẩy trắng người ta dùng hyposunfit natri.
 
Trước đây, ta hoàn toàn nhập thạch của Nhật Bản, cả Trung Quốc cũng vậy. Từ ngày giải phóng, Trung Quốc đã bắt đấu chế lấy được thạch mà dùng. Việt Nam ta đã bắt đầu chế lấy thạch từ nguyên liệu của ta từ một vài năm trước. Tuy chưa đáp ứng được nhu cầu, nhưng chất lượng bảo đảm.
 
C. Thành phần hoá học

Thành phần chủ yếu của thạch là muối canxi của phức chất giữa axit sunfuric và hydrat cacbon R(O - SO2 - O)Ca.
 
Thuỷ phân bằng HCl loãng đun sôi, sẽ được một dung dịch trong (gồm Galactoza và một ít axit sunfuric).
 
Theo sự nghiên cứu của Peat (1941), thạch là một loại đa đường gồm chuỗi dài phân tử trong đó cứ 9 phân tử d-galactoza thì có một phân tử 1-galactoza kết hợp với một phân tử axit sunfuric. Ta có thể dự kiến biểu thị công thức cấu tạo của thạch như sau:

Công thức cấu tạo của thạch
 
Trong thạch còn một tỷ lệ rất thấp Protit ((chừng 1 - 2%) chưa đủ để tỏa amoniac khi đun với NaOH khan. Do đó, có thể phân biệt thạch và cao động vật.
 
D. Công dụng và liều dùng

1. Chữa táo bón: Khi uống thạch vào trong cơ thể, thạch sẽ hút nước, phồng lên, làm cho thể tích phân trong ruột lớn lên, gây một môi trường rất tốt cho trực trùng ruột phát triển, trực trùng này đóng vai trò rất quan trọng trong sự co bóp của ruột già. Liều dùng: 1 - 10g bột một ngày (phải dùng bột mới có tác dụng), dùng nhiều ngày.
 
2. Dùng làm thực phẩm: Món ăn mát, ăn với nước đường làm xirô, làm kem, bảo quản thịt, giả làm chất nhầy trong quả.
 
3. Trong kỹ nghệ hồ vải, hồ giấy, làm môi trường cấy vì trùng: Tốt hơn gelatin vì cùng một trọng lượng như gelatin cho môi trường nhiều gấp 10 lần, ở nhiệt độ dưới 70oC vẫn cứng đặc.
 
Chú thích:

Ngoài rau câu ra, ở miền duyên hải người ta còn khai thác một loại tảo gọi là Rong mơ Sargassum (rau mơ), rau mã vĩ Fucus hay rau ngoai. Loại rau mơ mọc ở vùng nước sâu từ 3 - 6m, những nơi sóng gió tương đối lớn. Rau mọc bám vào đá và san hô. Thân rau mơ có màu nâu nhạt và có nhiều quả tròn, nhỏ bằng hạt tiêu, đó là những phao dùng cho rong mơ mọc đứng thẳng trong nước.

Rong mơ (Mã vĩ) - Sargassum fusiforme
 
Rau mơ vớt về, nhặt sạch tạp chất, ngâm nước ngọt cho hết nước mặn rồi phơi khô. Rau mơ dùng chế keo rau mơ dùng hồ vải, dán gỗ, chế tơ nhân tạo, các-tông, lie làm mũ.
 
Rau mơ rửa sạch muối, phơi hay sấy khô, tán nhỏ làm thành viên dùng chữa bệnh bướu cổ tên lotamin, tác dụng do chất i-ôt ở dạng hữu cơ. Mỗi ngày uống 2 - 4 viên. Uống luôn trong 3 - 4 tháng.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)