Thầu dầu, đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma (Ricinus communis L)

Thầu dầu có tên khoa học là Ricinus communis thầu dầu theo ghi nhận công dụng là Lá thầu dầu và hạt thầu dầu tía là một vị thuốc trong nhân dân để chữa bệnh sót nhau đẻ khó, vì cảm mà méo miệng, xếch mắt.

Oct 21, 2021 - 05:16
 0  31
Thầu dầu, đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma (Ricinus communis L)
Thầu dầu hay có nơi còn gọi là đu đủ tía có tên khoa học: Ricinus communis là một loài thực vật trong họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên duy nhất trong chi Ricinus cũng như của phân tông Ricininae.
Thầu dầu, đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma (Ricinus communis L)
Thầu dầu, đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma (Ricinus communis L)
Thầu dầu, đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma (Ricinus communis L)

Thầu dầu còn gọi là đu đủ tía, dầu ve, tỳ ma.

Tên khoa học:  Ricinus communis L. Thuộc họ Thầu dầu Euphorbiaceae.

Cây thầu dầu cung cấp các vị thuốc sau đây:

  1. Dầu thầu dầu - Tỳ ma du (Oleum Ricini) là dầu ép từ hạt cây thầu dầu.
  2. Hạt thầu dầu - Tỳ ma tử là hạt phơi khô cùa cây thầu dầu.
  3. Lá thầu dầu (Folium Ricini) là lá tươi của cây thầu dầu.

A. Mô tả cây

Cây thầu dầu là một cây sống lâu năm, thân yếu nhưng có thể cao tới 10 - 12m. Khi trồng tranh thủ giữa các vụ lúa, người ta chỉ để nó cao tới 1 - 2m. Lá mọc so le có cuống dài, 2 lá kèm hai bên họp thành một túi màng, sớm rụng, phiến là hình chân vịt, gồm 5 – 7 - 9 có khi tới 11 thuỳ, cắt sâu, mép có răng cưa không đều. Hoa mọc thành chùm xim nhiều hoa, xim dưới gồm toàn hoa đực, xim trên toàn hoa cái. Quả 3 mảnh vỏ, dài 2 - 3cm, rộng 2cm, trên mặt có nhiều gai mềm, đầu tròn và có 3 vết lõm chia 3 ngăn, trên lưng mỗi ngăn lại có 1 rãnh nông nữa. Hạt hình trứng, hơi dẹt, dài 8mm, rộng 6mm, ở đầu có mồng (chính là áo hạt của noãn khổng). Mặt hạt nhẵn bóng màu nâu xám, có vân đỏ nâu hay đen.
 
Có nhiều loại thầu dầu: thầu dầu thường và thầu dầu tía. Chỉ có lá loại tía được chọn dùng làm thuốc.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Mọc hoang và được trồng ở nhiều nơi vùng nhiệt đới các nước Việt Nam (Hà Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Ấn Độ, bắc châu Phi, Braxin,…
 
Mùa thu hoạch hạt vào tháng 4 - 5, nhưng chủ yếu với mục đích ép dầu dùng trong công nghiệp. Làm thuốc chỉ dùng rất ít hạt và dầu. Lá hái quanh năm. Thường chỉ dùng lá tươi.
 
C. Thành phần hoá học

Trong hạt thầu dầu có 40 - 50% dầu, 25% chất anbuminoit, một chất có tinh thể và nitơ (rixiđin), axit malic, đường muối, xenluloza, rixin và rixinin, các men trong đó có men lipaza,
 
Dầu thầu dầu là một chất lỏng sền sệt, trong, không màu hay hơi vàng, mùi vị nhạt và buồn nôn, tỷ trọng ở 15oC là 0.95 – 0.97, độ nhớt Engle 18.8 (nếu là dầu ép) hoặc 17.4 – 13.3 (nếu là dầu chiết bằng dung môi). Thành phần của dầu, ngoài các glyxerit chung như stearin, panmitin, còn có một glyxerit đặc biệt là rixinolein (xà phòng hoá sẽ cho axit rixinoleic) một ít axit isorixinoleic và axit dioxystearic.
 
Axit rixinoleic là một axit béo rượu có công thức sau đây:

Thuỷ phân axit rixinoleic sẽ cho axit onantylic và axit undexylenic có tác dụng chống nấm rất mạnh và được dùng trong kỹ nghệ nước hoa (tổng hợp undecanon, nonanon, andehyt undexylenic, heptin cacbonat metyl) kỹ nghệ cao phân tử rinsan.
 
Chất rixin có tỷ lệ 3 - 5% trong hạt là một protein rất độc. Khi ép dầu, chất này nằm lại trong khô dầu, làm thức ăn được. Có thể chiết chất rixin bằng nước muối (ngâm) rồi kết tủa bằng amon sunfat. Nó không tan trong dầu.
 
Rixinin là một ancaloit có tinh thể, không màu, tan trong nước, công thức thô là C8H8N2O2, cấu tạo hoá học của nó đã được Sparth và Koller (1923) xác định là 3 xyano 4 metoxyl-metyl 2 pyridon.
 
Khi phân giải, ta sẽ có cồn metylic và axit rixinic.
 
Tỷ lệ rixinin trong hạt là 0.15%, trong lá non là 1.3%, trong lá úa là 2.5%.

Thành phần lá thầu dầu chưa thấy giới thiệu nhiều, chỉ mới biết có rixinin với tỷ lệ như trên.
 
Trong lá thầu dầu có axit tactric, axit xitric, axit corydalic (Hoá học Học báo,1957, 23, 201), nhiều axit amin, rutonozit (khoảng 0.2%), quexitrin, astragalin, axit p eleostearic và axit oleic, axit hữu cơ no, lá tươi còn chứa corilagin C27H22O18, axit galic, axit ellagic và axit shikimic (Arthur H. R. Symposium on Phytochemistry, 1964, 164 và Kariyone et al. Annual index of the Reports on Plant Chemistry, 1959, 69).
 
D. Tác dụng dược lý

Dầu thầu dầu có tác dụng tẩy nhẹ và chắc chắn. Uống lúc đói với liều 10 - 30g. Sau khi uống 3 đến 4 giờ sẽ gây đi ỉa nhiều, mà không đau bụng. Với liều 30 - 50g, đi ỉa sẽ kéo dài 5 - 6 giờ. Dầu này không gây một hiện tượng sót nào trong ruột. Theo dõi bằng X quang, người ta thấy ruột non và ruột già co bóp nhiều hơn. Nó không ảnh hưởng tới xương chậu nhỏ, do đó rất tốt cho phụ nữ có thai mà táo bón. Nhưng dùng luôn, nó có thể gây chán ăn (anorexic), lưỡi trắng và có khi sốt. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể là do không tiêu, chứ không gây tổn thương nào trên niêm mạc.
 
Theo Valette và Salvanet (1936), tác dụng tẩy của dầu thầu dầu là do axit rixinoleic được giải phóng trong ruột. Axit này tác dụng lên mẩu đầu ruột non.
 
Chất rixin là một chất độc. Với liều 0.002mg, đối với 1kg thể trọng đã làm chết một con thỏ. Tác dụng độc của nó giống như vi trùng. Nó có thể gây miễn dịch: Cho súc vật ăn với liều nhỏ, nhiều lần, thì sau đó súc vật có thể ăn với liều khá cao mà không chết.
 
Rixin bị nhiệt độ cao phá huỷ, cho nên có nơi có thể cho lợn ăn khô thầu dầu đã hấp nóng ở 115oC trong một giờ rưỡi. Và có thể do đó, một vài nơi ở ta ăn hạt thầu dầu xào nấu mà không thấy hiên tượng ngộ độc.
 
Nếu không bị phá huỷ, độ độc của nó rất cao: 3g khô dầu đù giết chết một con bò non nặng 100kg, chỉ cần tiêm 0,03 mg cho 1kg thể trọng chó là đủ giết chết chó. Liều độc đối với một con chuột bạch nặng 500g là 6 phần triệu gram, tức là đối với chuột bạch, rixin độc gấp 7 lần chất aconitin là một chất độc vào loại độc nhất có trong Ô đầu (Aconitum).
 
Liều độc với người là 3mg tiêm dưới da, 180mg uống, một hạt đủ gây nôn mửa, 3 - 4 hạt đủ làm trẻ con chết, 14 - 15 hạt làm chết người lớn. Tiêm chất rixin đã đun lâu có thể gây miễn độc. Thanh huyết miễn độc, antirixin để lâu có thể giảm bớt hiệu lực.
 
Cơ chế tác dụng của rixin là làm vón hồng cầu và bạch cầu.
 
Chất rixinin không thấy có tài liệu về tác dụng dược lý.
 
E. Công dụng và liều dùng

Dầu thầu dầu dùng làm thuốc tẩy với liều 10 - 15g (trẻ con), 30 - 50g (người lớn). Sau khi uống 2 giờ hãy uống nước. Còn dùng làm mềm dẻo chất côlôđiông.
 
Trong kỹ nghệ, dầu thầu dầu dùng làm dầu máy bay, tổng hợp nước hoa, làm mềm da, chế sunforixinat (đỏ Thổ Nhĩ Kỳ - Rouge de Turquie) dùng để in trên vải,…
 
Còn là một chất phá bọt rất mạnh. Với liều 1/ 100,000 nó làm hết bọt trong một phút trong nồi súp de (nồi hơi).
 
Lá thầu dầu và hạt thầu dầu tía là một vị thuốc trong nhân dân để chữa bệnh sót nhau đẻ khó, vì cảm mà méo miệng, xếch mắt. Hiện nay, chưa rõ cơ chế tác dụng. Chỉ kể một số trường hợp để chú ý theo dõi.
 
Chữa sót nhau: Giã nhỏ 15 hạt thầu dầu, đắp vào gan bàn chân. Sau khi nhau ra rồi, cần rửa chân tay (Y học Thực hành, 10/1961).
 
Chữa đẻ khó: Cũng làm như vậy (kinh nghiệm nhân dân và có ghi trong sách cổ Bản thảo Đại minh).
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)