Thuốc cá, dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba (Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep)

Cây Thuốc cá Còn gọi là dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín. Có tên khoa học là Derris elliptica Benth đồng nghĩa Derris tonkinensis Gagnep dây duốc cá có rất nhiều công dụng chữa bệnh quý vị có thể xem chi tiết trong bài này.

Oct 19, 2021 - 02:07
 0  23
Thuốc cá, dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba (Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep)
Dây thuốc cá - Derris elliptica
Thuốc cá, dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba (Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep)

Cây Thuốc cá Còn gọi là dây duốc cá, dây mật, dây cóc, dây cát, lầu tín, tuba root (Anh), derris (Pháp), touba.

Tên khoa học: Derris elliptica Benth., Derris tonkinensis Gagnep. Thuộc họ Cánh bướm Fabaceae (Papilionaceae).

Dây duốc cá là những cây cho rễ dùng đánh bả cá. Vì những cây này chỉ độc đối với sâu bọ và động vật máu lạnh, không độc đối với người và súc vật nuôi trong nhà cho nên còn được dùng trong nông nghiệp để diệt trừ sâu bọ. Cây có ở Việt Nam.
 
A. Mô tả cây

Dây thuốc cá là một loại dây leo khỏe, thân dài 7 - 10m, lá kép gồm 9 - 13 lá chét, mọc so le, dài 25 - 35cm, lá chét lúc đầu mỏng, sau dai dày, hình mác, đầu nhọn, phía dưới tròn. Hoa nhỏ, trắng hoặc hồng. Quả loại quả đậu, dẹt, dài 4 - 8cm.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Nguồn gốc và vốn mọc hoang dại tại các nước Malaixia, Ấn Độ, Inđônêxia, Việt Nam, được trồng ở những nước nói trên và một số nước khác ở châu Phi (Côngô,...).
 
Trồng dây thuốc cá bằng dâm cành, mẩu rễ cành dài 0.4 – 0.5m, trồng cách nhau 1m. Sau hai năm bắt đầu cho thu hoạch. Phải thu hoạch hết các rễ nhỏ, vì rễ càng nhỏ, lượng hoạt chất càng cao. Hoạt chất cao nhất vào các tháng thứ 23 - 27. Cây chịu ánh sáng mạnh, nhưng ưa nơi mát hơn. Vì vậy, ở miền Nam Việt Nam nước ta người ta hay trồng xen giữa các cây cao su, cây dừa. Nhiệt độ thích hợp khoảng 27 - 28°C. Đất bón vôi cho năng suất rễ cao hơn. Ở Malixia, sau 25 tháng mỗi ha cho hơn 3 tấn rễ, trung bình năng suất là hơn 1.3 tấn. Trước đây, ở miền Nam Việt Nam thuốc cá được trồng nhiều ở Cà Mau, Bạc Liêu, Trà Vinh, Phú Quốc. Năm 1938 đã xuất cảng được 22 tấn rễ. Trên thị trường rễ thuốc cá dài ngắn không đều, đường kính thường trung bình 1cm, cong queo, mặt ngoài xám nâu, đến nâu đỏ nhạt, với những đường nhỏ chạy dọc. Vỏ dày, dính chắc vào gỗ màu nâu hồng, bẻ rất nhiều xơ, vị hơi ngọt, nhầy, sau đó nóng và hắc. Giã ngâm vào nước, nước sẽ có màu vàng đục và mùi đặc biệt, khác với rễ cóc kèn (xem ở sau) cho dung dịch trong.
 
C. Thành phần hóa học

Rễ dây thuốc cá chứa 10 - 12% nước 2 - 3% chất vô cơ, rất nhiều gluxit (đường, tinh bột), tanin, chất nhựa.
 
Hoạt chất chính là rotenon (hay tubotoxin, derrin) được Nagai chiết ra từ 1902. Tên rotenon do từ chữ roten là tên Nhật Bản của cây dây thuốc cá. Công thức thô là C23H22O6, công thức khai triển được Butenandt xác định từ năm 1928 với 5 vòng: 2 vòng benzen (A) và (D), một vòng pyran (B), 1 vòng pyron (C) và 1 vòng furan (E), ngoài ra còn 2 nhóm metoxy. Hiện nay, người ta xếp rotenon vào nhóm izoflavon (các vòng D, C, và A có gạch chéo). Rotenon là những tinh thể hình lăng rotenon nhân isoflavon (gạch dọc) trụ, không màu, tả tuyền, hầu như không tan trong nước 1/1,000,000, hơi tan trong cồn và ête, rất tan trong axeton, benzen và clorofoc (73%). Những dung dịch rotenon trong dung môi hữu cơ khi ra ánh sáng chuyển màu vàng rồi đỏ để thành chất dehydrorotenon vững bền và có độ độc vững bền.

Trong môi trường kiềm, dung dịch không vững bền.
 
Để xác định sự có mặt của rotenon, người ta dùng những phản ứng sau đây:
 
Phản ứng Durham, Howard, Jones và Smith, 1933: Đun 0.05g bột rễ duốc cá với 5ml clorofoc, lọc, phần lọc được cô khi trên kính đồng hồ, thêm 2 giọt axit sunfuric đặc sẽ xuất hiện màu vàng cam rất rõ, sau ngả màu nâu và tím khi thêm 1 hạt nitrit natri, phản ứng nhạy tới 1/10 mg.
 
Phản ứng Jones và Smith: Dung dịch 0.1% trong axeton thêm axit nitric rồi nước và kiềm hóa bằng amoniac sẽ xuất hiện màu xanh tím mạnh rồi mất.
 
Hoạt chất khác gần giống rotenon deguelin 3 - 8% (do chiết lần đầu tiên từ cây Deguelia cùng họ Đậu): Tinh thể hình kim màu lục nhạt, chảy ở 170°C, đồng phân của rotenon với hai vòng dihydroxybenzopyran, tephrosin, tinh thể không màu chảy ở 198°C (tên do chiết lần đầu tiên ở cây Tephrosia cùng họ Đậu), toxicarol và sumatrol cùng có những hydroxyphenol. Toxicarol có tinh thể hình lục lăng màu vàng lục, chảy ở 219°C.
 
Hàm lượng rotenon trong duốc cá thay đổi tùy từng loại, từ 4 - 12%, thông thường 5 - 8%, có thứ hoang dại lên tới 13%. Nhưng độ độc không chỉ do rotenon, mà còn tỷ lệ với lượng cao của ête của rễ. Thường một loại rễ chứa 4 - 5% rotenon cho chừng 16 - 22% cao ête. Thứ tự độ độc của các chất như sau: rotenon 400 lần mạnh hơn deguelin, deguelin 40 lần hơn tephrosin, tephrosin gấp 10 lần toxicarol.
 
Định lượng rotenon trong rễ thuốc cá (phương pháp do A. E NOR. Pháp quy định). Sau khi làm những phản ứng định tính nói trên, dùng clorofoc để chiết bột rễ duốc cá, ngâm trong 24 giờ và lắc trong 4 giờ. Bốc hơi dung dịch. Cặn còn lại hòa vào dung dịch tetraclorua carbon no rotenon đun sôi. Để nguội, phức chất Rotenon-Cl4C tinh thể tách ra, lọc qua phễu lọc thủy tinh xốp đã cân bì, dùng tetraclorua carbon no rotenon để rửa tinh thể, sấy ở 35oC rồi cân. Lượng rotenon trong phức chất được xác định bằng kết tinh lại trong cồn 95° đun sôi: Rotenon tinh khiết sẽ kết tinh khi dung dịch để nguội.
 
Ngoài phương pháp định lượng nói trên, còn có những phương pháp so màu dựa vào màu tím nhạt do tác dụng của axit sunfuric và nitrit natri, cho kết quả cao hơn phương pháp trên do toàn bộ các chất tương tự rotenon cũng cho màu.
 
D. Tác dụng dược lý

Từ lâu đời, dây thuốc cá được nhân dân vùng Đông Nam châu Á dùng duốc cá: Nghiền rễ với nước với liều 1 phần triệu, cá bị say và người ta bắt cá dễ dàng. Với liều cao hơn, cá có thể bị chết.
 
Tính chất trừ sâu của rễ duốc cá cũng được nhân dân Trung Quốc và Ấn Độ biết lừ lâu. Mãi đến khoảng những năm 1930, tính chất trừ sâu này mới được nghiên cứu ở châu Âu và châu Mỹ. Độc tính của rotenon thể hiện trên động vật máu lạnh do đường uống hay do tiếp xúc với nồng độ 1x106, deguelin 10 lần kém độc hơn, tephrosin 40 lần và toxicarol 400 lần. Rotenon độc làm tê liệt trung tâm hô hấp, con sâu tiếp xúc với rotenon sẽ bị yếu đi rồi chết, không giãy dụa. Trái lại, với dung dịch pyretrin (trong cúc trừ trùng), con sâu sẽ quằn quại. Tuy nhiên, không phải đối với sâu nào rotenon cũng có tác dụng.
 
Đối với người và động vật máu nóng, các chất đó hầu như không có độc tính (qua đường tiêu hóa), nhưng nếu tiêm mạch máu có thể gây liệt hô hấp và chết do ngạt.
 
Trên cơ sở tác dụng dược lý, người ta còn kiểm nghiệm rễ cây duốc cá bằng phương pháp sinh vật như sau:
 
Thử trên các loại cá vàng Carassius auratus (cyprin doré), Ides melanotes (Melanote), Phoxinus laevis (vairon): Xác định nồng độ loãng nhất làm cho con cá mất thăng bằng hoặc bị kéo theo dòng nước chảy.
 
Trên nhộng hay ấu trùng sâu bọ (doryphore, charancon,...): Phun những dung dịch loãng rotenon hay rễ thuốc cá lên những ấu trùng đặt trong những lồng kín.
 
Trên ruồi: Dùng lạnh làm tê liệt nhất thời ruồi, nhỏ trên mỗi con 1 giọt dung dịch thuốc định thử (dùng ống nhỏ giọt vi quản). Đếm số ruồi chết sau 24 giờ.
 
E. Công dụng và liều dùng

Đối với người và súc vật: Người ta dùng rễ tuốc cá làm thuốc tẩy giun, nhưng rễ tuốc cá cũng ít dùng so với các loại thuốc giun khác. Còn dùng chữa ghẻ dưới dạng thuốc mỡ.
 
Ở nước ta, tại một số vùng người ta chỉ hái cây thuốc cá tươi, làm thành một vòng treo trên sừng trâu những con trâu bị dòi hay có ký sinh. Dòi và ký sinh thấy mùi thuốc cá sẽ tự đi.
 
Thuốc cá: Xem những nơi nào có cá, lấy một ít rễ dây thuốc cá (nhiều ít tùy theo nơi đó nhiều hay ít nước), giã nhỏ, thả bột thô rễ cây thuốc cá vào nước, ít giờ sau, cá bị chất độc rotenon nên bị nghẹt thở nổi lên mặt nước. Bắt cá đó thả vào nước sạch, cá sẽ sống lại.
 
Thuốc trừ sâu hay dùng nhất, dưới những dạng sau đây: Để diệt trừ ruồi, muỗi, mối, mọt, gián, nhện, sâu hại cây trồng,... tác dụng của rotenon mạnh gấp 4 - 10 lần nicotin. Đối với những sâu bọ có vỏ cứng và bộ máy hô hấp khó thâm nhập, cần dùng với liều gấp hai, ba.
 
Trộn bột rễ thuốc cá với những bột trơ như bột talc, đất sét, thạch cao,... cần tránh những bột có phản ứng kiềm vì chất kiềm làm cho rotenon mất tác dụng. Cầu lacton có tác dụng bị phá hủy. Tỷ lệ pha trộn cũng không nên quá 30%, có khi chỉ cần 15% bột nguyên chất là đủ.
 
Có thể dùng bột rotenon cũng trộn với những bột trơ khác như talc, đất sét,... nhưng tỷ lệ rotenon tối đa chỉ cần 1%, trung bình chỉ cần 0.25 – 0.5%. Bột rotenon để một năm không bị giảm tác dụng nhưng bột rễ thuốc cá để lâu kém tác dụng. Nhưng nếu dùng bột rễ duốc cá tươi tác dụng còn mạnh hơn dùng rotenon. Thường tác dụng tốt nhất thu được với những dung dịch nước ngầm 5% rễ thuốc cá tươi.
 
Có khi, người ta phối hợp rotenon hay rễ thuốc cá với pyretrin vì pyretrin tác dụng mau hơn nhưng sự bảo quản của pyretrin còn chóng mất tác dụng hơn và giá thành cũng cao hơn.
 
Để tăng độ dính hay tính chất nhũ hóa, thường người ta còn dùng thêm những chất dính như dầu lạc, dầu thầu dầu, anbumin, máu, casein,... Chú ý dùng những chất dính không gây những phản ứng làm giảm tác dụng của rotenon, những chất nhũ hóa thường dùng là mật bò, xà phòng nhưng cũng chú ý tránh dùng những chất nhũ hóa có tính chất kiềm làm giảm tác dụng của rotenon.
 
Một công thức dùng rễ thuốc cá: Rễ thuốc cá 250g, xà phòng 250g, nước 100 lít. Rửa sạch rễ, giã nát ngâm vào 15 lít nước trong 24 giờ. Rửa sạch cối, chày, nước rửa dồn vào dung dịch nói trên. Sau 24 giờ, vớt rễ ra và lọc. Bã ngâm vào 10 lít trong 3 giờ. Lọc lại. Khi dùng cho thêm nước đã pha, thêm xà phòng vào theo tỷ lệ trên cho đủ 100 lít. Dùng bơm bơm lên những nơi có sâu, hoặc côn trùng như vườn rau, vườn cây, nhà cửa,...
 
Chú thích: Ngoài cây đuốc cá Derris elliptica nói trên, tại nhiều nước còn dùng loại Derris malaccensis Prain với cùng một mục đích.

Loài Derris malaccensis

Loài Derris malaccensis
 
Gần đây, Viện Y dược học Dân tộc thành phố Hồ Chí Minh đã dùng lá cây cóc kèn Derris trifoliata Lour, cùng họ làm thuốc cầm máu, làm lành vết thương. Cây này là một loại dây leo lớn, lá có 3 - 5 lá chét, đôi khi 7, hoa màu trắng phớt hồng, mọc thành chùm, quả dài 3 - 4cm rộng 2.0 – 2.8cm, chứa một hạt. Trong lá cóc kèn có 11% tanin, rotenon, nhiều flavon dưới dạng bột mịn màu vàng nhạt (Dược học 2, 1980).

Loài Cóc kèn - Derris trifoliata

Loài Cóc kèn - Derris trifoliata
 
Trong nhân dân còn dùng lá sắc uống chữa lỵ, ỉa chảy.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)