Ngọt nghẹo, nghẽo nghọt, roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Gloriosa superba L, Gloriosa simplex Don.)

Cũng theo tài liệu Ấn Độ, người ta dùng thân rễ tươi giã nát đắp lên phía trên mu âm hộ để giúp cho dễ đẻ, hoặc để cho nhau thai chóng ra. Có khi người ta chỉ đắp lên trên gan bàn tay, bàn chân cũng có kết quả. Cần chú ý nghiên cứu.

Nov 19, 2021 - 22:12
 0  10
Ngọt nghẹo, nghẽo nghọt, roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Gloriosa superba L, Gloriosa simplex Don.)
Ngót nghẻo, ngoắt nghoẻo hay ngọt nghẹo, huệ lồng đèn, gia lan là một loài thực vật thuộc họ Colchicaceae. Cây có củ ngầm do thân rễ phình lên tạo thành, thân vươn dài quấn lên các cây khác để vươn lên cao. Lá mọc cách, mọc đối hay mọc vòng, đỉnh kéo dài thành tua cuốn.
Ngọt nghẹo, nghẽo nghọt, roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Gloriosa superba L, Gloriosa simplex Don.)
Ngọt nghẹo, nghẽo nghọt, roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Gloriosa superba L, Gloriosa simplex Don.)

Cây Ngọt nghẹo còn gọi là nghẽo nghọt, roi, cỏ củ nhú nhoái, vinh quang rực rỡ, phan ma ha (Lào), var sleng đông đang (Campuchia).

Tên khoa học là Gloriosa superba L. (Gloriosa  simplex Don.). Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.

Cây ngọt nghẹo là một nguồn conchixin ở nước ta và những nước nhiệt đới khác, đồng thời là một cây làm cảnh vì hoa rất đẹp.
 
A. Mô tả cây

Cây ngọt nghẹo là một loại cây sống lâu do thân rễ gồm một chuỗi củ mẫm, hình cung, từ những nơi nhô lên mọc các thân cao tới 3 - 6m, nhẵn mềm, phía đỉnh có cạnh. Lá mọc so le, hay mọc đối, đôi khi mọc vòng, không cuống hay cuống ngắn, phiến lá hình mác trên đầu tận cùng bằng một tua cuộn lại hình xoắn ốc, toàn bộ dài 7 - 12cm, rộng 2 - 3cm, gân dọc rất sít nhau. Hoa mọc đơn độc hoặc gần nhau thành ngù giả ở đầu cành, hoa to rất đẹp, cuống dài 10 - 15cm, dáng đặc biệt, cánh hoa vàng đỏ đẹp ở 2/3 trên, phía dưới màu vàng tươi. Nhị 6 bao phấn đính ở giữa. Bầu 3 ngăn, nhiều tiểu noãn. Quả nang hình chùy dài 5 - 6cm chứa nhiều hạt, khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa vào các tháng 5 - 6. Mùa quả vào các tháng 6 - 8.

B. Phân bố, thu hái và chế biến

Theo tài liệu, cây này được phát hiện tại nhiều nơi ở miền Nam nước ta, nơi có nhiều ánh sáng như Huế, Đà Nẵng, Phan Thiết, Phan Rang, Nha Trang, Quảng trị. Tại miền Bắc, cho đến nay chúng ta chưa thấy. Năm 1967, chúng tôi đã xin được giống (hạt và thân rễ) từ Liên Xô cũ về để trồng thí nghiệm và đã theo dõi trong khoảng thời gian từ tháng 8/1967 đến 5/1976 (Đỗ Tất Lợi). Hàng năm, cây mọc tốt, năm 1968 bắt đầu ra hoa kết quả bình thường.
 
Còn mọc ở Ấn Độ, Miến Điện, Malaixia, Phi Châu, Thái Lan, Inđônêxya.
 
Cho đến nay, chưa thấy ai dùng cây này làm thuốc. Ở nước ta chỉ mới thấy ghi rằng thân rễ rất độc.
 
Thân rễ thường gồm 2 củ dính nhau thành hình thước thợ, một củ nhỏ hơn, thân rễ thường dài 15 - 20cm, đường kính 2.0 – 2.5cm. Khi tươi củ mẫm, ngọt, trên mặt phủ một lớp vỏ màu nâu nhạt, dưới lớp vỏ là một lớp màu vàng nhạt như sáp, điểm những đốm màu vàng sẫm. Phía trong màu trắng gồm những tế bào chứa tinh bột. Dịch thân rễ nhầy, hơi đắng, trong những thân rễ lâu năm thì tinh bột ít đi. Sấy khô trông dáng tinh bột, nhưng sau khi đồ rồi mới phơi thì vết bẻ trong cứng.
 
C. Thành phần hóa học

Thân rễ tươi chứa khoảng 80% nước, nung cho 4.58% tro kiềm trong đó có nhiều kali 1.53%, tro không tan trong nước, tro thêm axit có sủi bọt.
 
Năm 1880, Warden phân tích thấy một chất nhựa, một chất đắng mà Warden coi là hoạt chất, đặt tên là supecbin và tác giả cho là giống hoạt chất trong củ Hành biển (Scilla maritima), một ít axit tanic, tinh bột và đường khử.
 
Clever, Stanley và Tutin (1915, London J. Chem. Soc.) nghiên cứu thân rễ ngọt nghẹo gốc Xây lan (Xrilanca) đã phát hiện cochixin với tỷ lệ 0.3%, chất supecbin của Warden chính là conchixin (có trong cây Tỏi độc với tỷ lệ 0.2% đến 0.8%).
 
Năm 1941, Current Sci. Inde 10 (10) cũng thấy 0.3% conchixin trong dịch chiết bằng cồn từ thân rễ khô.
 
Chetteji S. K. và H. D. Ganguili (1948) nghiên cứu bột khô của thân rễ ngọt nghẹo đã đi tới những kết luận sau đây:
 
1. Trong quá trình chiết theo phương pháp Stass-Otto, cả ête kiềm, ête axit và clorofoc kiềm cũng không lấy hết chất độc.
 
2. Clorofoc axit là dung môi tốt nhất và cặn còn lại có những đặc điểm sau: Vị đắng, phản ứng Maye âm tính, với axit clohydric và axit sunfuric cho màu vàng đậm, với axit sunfuric và kali nitrat tinh thể cho màu tím rồi đỏ, với axit sunfuric và kali bicromat không cho màu, với axit nitric đặc cho màu tím đậm với dìa màu vàng, với dịch Fehling chỉ hơi có tác dụng khử, tiêm vào ếch thì ếch chết.
 
Năm 1952, Subbaratnam (7. Sci. Industr.Ris. B. Ấn Độ, 11 [10], 446 - 447) báo cáo đã chiết được từ thân rễ ngoài conchixin ra, còn lấy được chất ancaloit khác gọi là gloriosin có tinh thể hình phiến chữ nhật, không cho màu với sắt clorua III.
 
D. Tác dụng dược lý

Một ít bột thân rễ cho vào chậu nuôi cá, cá chết rất nhanh.
 
Mặc dù, thân rễ có vị rất đắng nhưng vì miếng thái rất giống gừng cho nên tại Campuchia người ta thường phát hiện một số trường hợp ngộ độc chết người do ăn nhầm thân rễ này.
 
E. Công dụng và liều dùng

Như ở trên đã nói, chúng tôi chưa thấy nhân dân ta dùng cây này làm thuốc. Sở dĩ giới thiệu ở đây là vì đây là một nguồn conchixin có thể dễ trồng và dễ kiếm ở nước ta, thay cho việc trồng cây Colchicum autumnale (Tỏi độc) vừa khó trồng, vừa hiệu suất thấp.
 
Theo Chopra và Badhwar (1940, Ind. J. Agric Sci., 10.41), tại Ấn Độ thân rễ thường được dùng để tự tử hoặc để gây sẩy thai, dịch chiết từ lá dùng để diệt chấy.
 
Cũng theo tài liệu Ấn Độ, người ta dùng thân rễ tươi giã nát đắp lên phía trên mu âm hộ để giúp cho dễ đẻ, hoặc để cho nhau thai chóng ra. Có khi người ta chỉ đắp lên trên gan bàn tay, bàn chân cũng có kết quả. Cần chú ý nghiên cứu.
 
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)