Cây Sở, trà mai, trà mai hoa, cây dầu chè (Camellia sasanqua Thunb., [Thea sasanqua (Thunb.) Nois.].)
Theo ghi nhận Khô dầu sở dùng làm phân bón, thuốc trừ sâu, trừ giun đất, không thể dùng cho súc vật ăn được vì có độc. Khô dầu sở còn có thể dùng làm nguyên liệu để chiết saponozit dùng trong những kỹ nghệ khác.
Cây Sở còn gọi là trà mai, trà mai hoa, cây dầu chè.
Tên khoa học: Camellia sasanqua Thunb., [Thea sasanqua (Thunb.) Nois.]. Thuộc họ Chè Theaceae.
Cây sở cho ta những sản phẩm sau đây:
Dầu sở còn gọi là dầu chè dùng làm thực phẩm hay trong kỹ nghệ xà phòng.
Khô sở dùng làm phân bón, nguyên liệu chiết saponozit, làm thuốc trừ sâu, duốc cá.
A. Mô tả cây
Cây sở là một cây nhỏ, cao chừng 5 - 7m, Lá không rụng, hầu như không cuống, hình mác thuôn hay hình trứng thuôn dài, đầu nhọn, phía cuống hơi hẹp lại, phiến lá dai, nhẵn, mép có răng cưa, dài 3 - 6cm, rộng 1.5 – 3.0cm. Hoa mọc ở nách hay ở ngọn, tụ từng 1 dến 4 cái, màu trắng, đường kính 3.5cm. Quả nang, đường kính 2.5 – 3.0cm, hơi có lông, đỉnh tròn hay hơi nhọn, thành dày, có 3 ngăn, mở dọc theo ngăn, mỗi ngăn có 1 đến 3 hạt có vỏ ngoài cứng, lá mầm dày, chứa nhiều dầu.
B. Phân bố, thu hái và chế biến
Cầy dầu sở đượcc trồng nhiều nhất ở tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ rồi đến các tỉnh khác có ít hơn như Hòa Bình, Hà Tây, vùng huyện Nho Quan thuộc Ninh Bình, Bắc Ninh, Bắc Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng. Tại miền Trung, ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh đến cả những tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên cũng có mọc. Có một số nơi có cây sở mọc hoang.
Sở còn mọc và được trồng ở các nước khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện.
Muôn trồng sở cần chọn những đất nham thạch (schisteux), cát và đất thó, có độ dốc, hình như cây rất sợ nước đọng, do đó những nơi ven hồ ao, những bãi ẩm cây không mọc được. Nó còn đòi hỏi độ ẩm cần thiết của không khí và tránh những nơi có gió hanh. Thường trồng xen kẽ với cây chè và cây sơn. Cuối tháng 2 vào mùa mưa phùn, người ta vùi hạt sâu chừng 3 - 4cm, cần chọn những hạt vừa thu hái trong mùa vừa qua. Thường trồng theo những hàng cách nhau 6m và mỗi cây trên mỗi hàng lại cách nhau chừng 4.5 đến 5.0m. Nếu trồng xen kẽ với sơn thì mỗi hàng cách nhau 4 cây sơn, trên mỗi hàng mỗi cây lại cách nhau 3 cây sơn. Sau 4 năm cây đã cao 1.8 – 2.0m, sau 6 năm bắt đầu thu hoạch được quả thì cây cao chừng 3m. Cây 8 tuổi cao chừng 4.5 - 5m và cho chừng 8 đến 10kg quả, vào năm thứ 15 là năm cho thu hoạch cao nhất, cây sở cho chừng 40kg quả. Cây lúc này có dáng rất đặc biệt, đứng xa cũng nhận được dáng hơi hình cầu cùa tán cây. Mùa hoa vào các tháng 11 – 12, quả chỉ chín và thu hái vào tháng 9 - 10 năm sau. Thường cây sở cho 2 năm thu hoạch cao thì 1 năm lại thu hoạch thấp. Nếu đong bằng lít thì 2 năm thu hoạch cao chừng 90 lít quả thì năm thấp chỉ được 20 lít. Việc chăm sóc hầu như rất ít, chỉ mấy năm đầu cẩn làm cỏ, nhưng thường chăm sóc cho chè và sơn là chủ yếu, còn cây sở ít đòi hỏi hơn. Thường 100kg quả cho chừng 50kg nhân hạt và 100kg hạt cho chừng 15 - 16 lít dầu và chừng 80 - 85kg khô sở.
C. Thành phần hóa học
Trong lá có chứa 0.4 – 1.0% tinh dầu. Tỷ trọng ở 21°C là 1.061, thành phần chủ yếu của tinh dấu là eugenol C10H12O2, tỷ lệ đạt tới 95 - 96%.
Trong hạt có chứa chừng 58 đến 60% chất dầu lỏng, màu nâu vàng nhạt hay vàng rơm, mùi nhẹ dễ chịu, tỷ trọng ở 15°C là 0.9, không tan trong cồn 95o, độ axit biểu thị bằng axit oleic là 2.876g trong 1kg dầu.
Từ khô sở, F. Guichard và Bùi Đình Sang đã chiết được 28% saponozit có phản ứng trung tính của những sapotoxin. Sapotoxin này màu vàng nhạt, tan trong nước, trong cồn 90°, trong cồn metylic , không tan trong cồn tuyệt đối và cồn amylic nguội nhưng tan trong cồn nóng. Thủy phân cho fructoza và một sapogenin chảy ở 238 - 245°C.
D. Tác dụng và liều dùng
Dầu sở được dùng làm thực phẩm, nấu xà phòng, thắp đèn, chữa ghẻ lở.
Khô dầu sở dùng làm phân bón, thuốc trừ sâu, trừ giun đất, không thể dùng cho súc vật ăn được vì có độc. Khô dầu sở còn có thể dùng làm nguyên liệu để chiết saponozit dùng trong những kỹ nghệ khác.
Bó gẫy xương: Lá sở 50g, lá náng 50g, hai thứ giã nhỏ. Đắp và bó.
Lá sở ở nước ta chưa thấy khai thác. Tại Liên Xô cũ, người ta coi đây là một nguồn tinh dầu chứa eugenol quan trọng. Ta nên chú ý nghiên cứu để tận dụng.
Chú thích:
Ngoài cây sở nói trên, trong Quảng Châu Thực vật chí có phân biệt và kể cây Du trà Camellia oleosa (Lour Rehd.) cùng họ với sở và có các tên khác là Thea oleosa Lour., Camellia drupifera Lour. Theo Quảng Châu Thực vật chí thì cây này mới được nhân dân vùng trung, tây nam và nam Trung Quốc trồng để lấy dầu dùng ăn và làm thuốc.
Tìm hiểu chi tiết: Du trà - Camellia drupifera
Cần chú ý đi sâu xác định lại, đối chiếu với cây của ta.
(Theo Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – GS. Đỗ Tất Lợi)
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |
⭐️Nhấp vào liên kết https://temu.to/k/uqlwz2gku6j để nhận gói giảm giá $ ₫1.500.000 hoặc ⭐️Tìm kiếm ach735692 trên ứng dụng Temu để nhận chiết khấu $ 30%!! |